Giáo Hội Và Nghệ Thuật: Từ Công Đồng Vatican II Đến Nay

 

Trong Thư gửi các nghệ sĩ, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viết: “Nghệ thuật chân chính, cho dù không mang tính cách tôn giáo, vẫn là một chiếc cầu dẫn tới cảm nghiệm tôn giáo”.[2] Điều không thể phủ nhận là trong tất cả các tôn giáo, nghệ thuật giữ một địa vị quan trọng, và các trào lưu tôn giáo đều để lại ảnh hưởng trong nghệ thuật. Michelangelo đã nói rằng:Nghệ thuật tự nó là “thánh thiêng” bởi vì có một liên hệ sâu xa giữa nghệ thuật và tâm linh. Trong bài này, chúng tôi muốn trình bày vài suy tư về Giáo Hội với nghệ thuật từ Công Đồng Vatican II đến nay.

I. GIÁO HỘI VỚI NGHỆ THUẬT: TỪ VATICAN II ĐẾN GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

1. Công Đồng Vatican II

Tại Công Đồng Vatican II, Giáo Hội Công Giáo đã phát biểu về nghệ thuật thánh qua Hiến chế về phụng vụ (Sacrosanctum Concilium) ngày 4/12/1963, với Chương VII mang tựa đề: “Nghệ thuật thánh và vật dụng trong phụng tự” (De arte sacra deque sacra suppellectile). Văn kiện này trở thành điểm quy chiếu cho những bản văn ra đời sau đó.

Hiến chế khẳng định rằng: Giáo Hội coi mình như là “bạn của các nghệ thuật” và trải qua lịch sử luôn tìm kiếm sự hỗ trợ cao quý của nghệ thuật. Về phẩm giá của nghệ thuật thánh, Công Đồng viết: “Trong số những kỹ năng hoạt động cao quý nhất của con người, chắc chắn phải kể đến mỹ thuật, nhất là nghệ thuật tôn giáo mà đỉnh cao là nghệ thuật thánh. Tự bản chất, nghệ thuật thánh diễn tả cách nào đó vẻ đẹp của Thiên Chúa qua những tác phẩm nhân loại, được dâng hiến cho Thiên Chúa, càng thêm lời ca tụng và làm tỏa sáng vinh quang Ngài hơn nữa khi không nhằm chủ đich nào khác ngoài việc góp phần tích cực giúp con người thành kính hướng về Thiên Chúa. Vì thế, Mẹ thánh Giáo Hội vẫn mến chuộng và luôn nghĩ đến vai trò cao quý của mỹ thuật cũng như việc đào tạo các nghệ nhân, chủ yếu để những vật dụng trong phụng tự thánh được thực sự xứng đáng, thanh nhã và cao đẹp, đồng thời biểu thị và tượng trưng cho những thực tại cao siêu. Hơn nữa, Giáo Hội vẫn đảm nhận việc thẩm định về mỹ thuật, tuyển chọn giữa những công trình của các nghệ sĩ những tác phẩm thích hợp với đức tin, với lòng đạo đức, và với những quy định truyền thống về tôn giáo, cũng như quyết định tác phẩm nào xứng đáng dùng vào việc thánh. Giáo Hội đặc biệt quan tâm muốn cho vật dụng thánh góp phần cách xứng đáng và có mỹ thuật vào việc phụng tự cao quý, đồng thời cũng chấp nhận những thay đổi về chất liệu, hình thức, cũng như về nghệ thuật trang trí do những tiến triển kỹ thuật mang lại qua các thời đại.[3]

Vào cùng ngày 4/12/1963, Công Đồng công bố một văn kiện khác, Sắc lệnh về các phương tiện truyền thông xã hội (Inter mirifica), trong đó có một đoạn văn nói đến mối dây liên kết giữa sáng tác nghệ thuật và hành động luân lý: “Vấn đề thứ hai liên quan đến điều thường gọi là tương quan giữa những quyền lợi của nghệ thuật và tiêu chuẩn của luật luân lý. Vì những tranh luận dai dẳng ở về vấn đề này thường phát xuất từ những học thuyết sai lầm về luân lý và thẫm mỹ, nên thánh Công Đồng xác quyết rằng quyền ưu tiên của định chế luân lý khách quan phải được mọi người tuyệt đối tôn trọng, vì đây là một định chế trổi vượt và có thể phối hợp hài hòa tất cả các dạng thức sinh hoạt của con người, vốn luôn được tôn trọng, kể cả ngành nghệ thuật. Thật vậy, chỉ có luân lý mới chạm đến bản tính toàn diện của con người, một thụ tạo có lý trí do Thiên Chúa tạo dựng và được mời gọi vào đời sống siêu nhiên, nếu trung thành tuân giữ nghiêm minh lề luật luân lý, con người sẽ đạt tới sự hoàn thiện và hạnh phúc trọn vẹn”.[4] Điểm độc đáo của đoạn văn này, theo R. Papa, ở chỗ đặt vấn đề thẩm mỹ trong bối cảnh của các phương tiện truyền thông xã hội, và phân tích tương quan giữa các quyền lợi của nghệ thuật với các nguyên tắc luân lý. Có những người muốn đặt nghệ thuật ra ngoài luân lý, nhưng có lẽ họ đã hiểu vấn đề không đúng chỗ. Nghệ thuật phải góp phần vào việc xây dựng con người, làm sáng tỏ chân lý qua cái đẹp. Vì thế nghệ thuật không thể nào đặt mình ra khỏi việc tìm kiếm chân lý và sự thiện, là những quy chuẩn cho tất cả mọi hoạt động của con người.[5]

Công Đồng còn đề cập đến nghệ thuật trong chương II của Hiến chế Gaudium et spes, khi đề cập đến việc cổ võ và thăng tiến văn hóa.[6]Nghệ thuật được nhìn như một “sự kiện văn hóa”, một “gia tài văn hóa”. Ngay từ số đầu, Công Đồng đã trình bày hiện tượng đa nguyên văn hóa: “vì có nhiều cách làm việc và tự thể hiện, nhiều cách phụng tự và định hình phong tục, nhiều cách thiết lập luật lệ và định chế pháp lý, nhiều cách phát triển khoa học, nghệ thuật và trau giồi thẩm mỹ, nên mới phát sinh nhiều phong cách sống và nhiều dạng thức xác lập bậc thang các giá trị của cuộc sống. Như thế, từ các định chế được lưu truyền, hình thành một di sản riêng của mỗi cộng đồng nhân loại”.[7]

Trong những sứ điệp mà Công Đồng gửi cho thế giới(ngày 8/12/1965), sứ điệp dành cho các nghệ sĩ viết như sau: “Giờ đây, hướng đến các nghệ sĩ, những người say mê vẻ đẹp và hoạt động vì cái đẹp: các thi sĩ và văn sĩ, họa sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư, nhạc sĩ, những người làm việc trong ngành tuồng kịch và điện ảnh,… Giáo Hội của Công Đồng cùng chung một tiếng với chúng tôi, ngỏ lời với quý vị: nếu quý vị là bạn hữu của nghệ thuật chân chính, thì quý vị cũng là bạn hữu của chúng tôi. Từ lâu Giáo Hội đã kết ước với quý vị. Quý vị đã xây cất và trang trí cho các đền thờ của Giáo Hội, cử hành các tín điều, làm cho phụng vụ thêm phong phú. Quý vị đã giúp Giáo Hội diễn đạt sứ điệp của Thiên Chúa ra ngôn ngữ của các hình thể, giúp cho sứ điệp ấy có thể hiểu được. Hôm nay cũng như hôm qua, Giáo Hội cần đến quý vị và ngỏ lời với quý vị. Giáo Hội nói với quý vị qua chúng tôi rằng: xin đừng phá vỡ mối dây liên kết phong phú ấy! Đừng từ chối đem tài năng vào việc phục vụ chân lý Thiên Chúa! Đừng đóng cửa tinh thần của quý vị trước làn gió của Chúa Thánh Thần! Thế giới chúng ta đang sống đang cần đến cái đẹp để khỏi rơi vào tuyệt vọng. Cái đẹp, cũng giống như chân lý, mang lại niềm vui cho tâm hồn con người, và là hoa trái quý báu chống lại sự tàn tạ của thời gian, liên kết các thế hệ, truyền thông sự thán phục. Được như vậy là nhờ bàn tay của quý vị”.

2. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI

Trước đó, vào ngày 07/05/1964, như Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI đã nhắc lại 45 năm sau, tại nhà nguyện Sistina “đã diễn ra một biến cố lịch sử, mà Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã muốn tổ chức để tái khẳng định tình hữu nghị giữa Giáo Hội với các nghệ sĩ, và yêu cầu họ hãy phân tích cách nghiêm túc và khách quan về những lý do đã làm suy sút mối tương quan ấy; đồng thời yêu cầu họ hãy can đảm dấn thân vào sự “phục hưng” của nghệ thuật, trong bối cảnh của một nền nhân văn mới.[8]

Trong những tuyên ngôn kế tiếp của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, chúng ta có thể nhắc đến diễn từ ngày 23/06/1973, nhân dịp gặp gỡ các nghệ sĩ đã hiến tặng tác phẩm của mình cho bộ sưu tập nghệ thuật tôn giáo của Viện Bảo Tàng Vatican, được đặt tên là “vườn địa đàng của nghệ thuật tôn giáo, và bài diễn văn ngày 21/07/1976 dành cho các người tham dự cuộc hội thảo về cảm hứng tôn giáo trong mỹ thuật của Mỹ châu.[9]

3. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

Dưới triều Giáo Hoàng của Đức Gioan Phaolô II, nhiều văn kiện được ban hành liên quan đến đề tài của chúng ta, trong đó phải kể đến là: Bộ Giáo luật (25/01/1983), Tông hiến Pastor Bonus về việc cải tổ giáo triều (28/06/1988), và quan trọng nhất là Lá thư gửi các nghệ sĩ (04/04/1999).[10]Đức Giáo Hoàng cũng tôn phong Beato Angelico làm bổn mạng các nghệ sĩ và giới thiệu như một mẫu gương của sự hài hòa giữa đức tin và nghệ thuật (ngày 18/02/1984).

Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ban hành ngày 11/10/1992, có nhiều đoạn liên quan đến nghệ thuật. Khi chú giải điều răn thứ 8 (Không được làm chứng gian), Sách Giáo Lý đã dành một mục để bàn về “Chân lý, vẻ đẹp và nghệ thuật thánh”,[11] nêu bật sự liên hệ giữa chân lý và vẻ đẹp, nghĩa là giữa nghệ thuật với chân lý và điều thiện: “Niềm vui tinh thần và vẻ đẹp luân lý, đi đôi với việc thực thi điều thiện. Cũng vậy, chân lý mang lại niềm vui và ánh huy hoàng của vẻ đẹp tinh thần. Chân lý, tự nó, là đẹp. Chân lý được diễn tả bằng lời nói, sự diễn tả hữu lý của nhận thức về thực tại được tạo dựng và không được tạo dựng, là cần thiết cho con người đã được phú ban trí tuệ, nhưng chân lý cũng có thể được con người diễn tả bằng những hình thức khác nhau, nhất là khi vấn đề phải gợi lên lại bao hàm điều khôn tả, những điều sâu thẳm của trái tim con người, những điều cao vời của linh hồn và mầu nhiệm của Thiên Chúa. […] Con người cũng diễn tả chân lý về tương quan của mình với Thiên Chúa Sáng Tạo bằng vẻ đẹp của các tác phẩm nghệ thuật của mình. Thật vậy nghệ thuật là một hình thức diễn tả chỉ riêng con người mới có; vượt lên trên việc cố gắng thỏa mãn những nhu cầu sinh tồn, là điều chung của mọi sinh vật, nghệ thuật là sự đầy tràn chan chứa, được ban tặng cách nhưng không, sự giàu sang nội tâm của con người. Xuất phát từ tài năng do Đấng Tạo Hóa ban, và từ nỗ lực của chính con người, nghệ thuật là một hình thức của sự khôn ngoan thực tiễn, kết hợp kiến thức với tài khéo léo, để tạo hình thể cho chân lý của một thực tại, bằng thứ ngôn ngữ có thể cảm nhận được bằng mắt thấy và bằng tai nghe. Như vậy nghệ thuật bao hàm một sự tương tự nào đó với hoạt động của Thiên Chúa trong công trình tạo dựng, theo mức độ nghệ thuật được gợi hứng bởi chân lý về vạn vật và lòng yêu mến vạn vật. Cũng như bất cứ hoạt động nào khác của con người, nghệ thuật không có mục đích tuyệt đối nơi chính nó, nhưng được quy hướng về con người, và trở nên cao quý nhờ mục đích tối hậu là con người”.[12]

Về nghệ thuật thánh, Sách Giáo Lý viết tiếp: “Nghệ thuật thánh sẽ thật và đẹp, khi nhờ hình thức thích hợp, nó đáp ứng với ơn gọi riêng của nó: trong đức tin và trong sự tôn thờ, nghệ thuật thánh gợi lên và tôn vinh mầu nhiệm siêu việt của Thiên Chúa, vẻ đẹp siêu phàm của chân lý và của tình yêu, đã xuất hiện nơi Đức Kitô, Đấng là phản ánh vẻ huy hoàng, là ‘hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa’ (Dt 1,3)… Người là vẻ đẹp thiêng liêng đang tỏa chiếu nơi Đức Trinh nữ rất thánh Mẹ Thiên Chúa, nơi các thiên thần và các thánh. Nghệ thuật thánh đích thực đưa con người đến việc tôn thờ, việc cầu nguyện và việc yêu mến Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa và Cứu Độ, Đấng Thánh Thiện và Thánh hóa”.[13]

Chính vì thế, “các giám mục… phải lưu tâm cổ võ nghệ thuật thánh, cổ truyền cũng như hiện đại, trong mọi hình thức của nó, và cũng với sự lưu tâm đạo đức đó, loại trừ khỏi phụng vụ và những nơi thờ phượng mọi điều không phù hợp với chân lý đức tin và với vẻ đẹp đích thực của nghệ thuật thánh”.[14]

Trong thư gửi các nghệ sĩ, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thêm rằng: “Xét như sự tìm kiếm cái đẹp, kết quả của óc tưởng tượng vượt xa người thường, nghệ thuật tự bản tính là một thứ kêu cầu Mầu nhiệm. Kể cả khi đào sâu những ngóc ngách đen tối của linh hồn hoặc những khía cạnh kinh tởm của tội ác, nghệ sĩ phần nào trở thành tiếng nói của nhân loại đang trông chờ ơn cứu độ”.[15] Ngài kết luận: “Cái đẹp là ẩn số của mầu nhiệm và đèn báo đến siêu việt”.[16] Mặt khác, khi tái khẳng định rằng Giáo Hội cần đến nghệ thuật,[17] tác giả cũng đặt câu hỏi: “Nghệ thuật có cần đến Giáo Hội không?”, để thúc giục các nghệ sĩ hãy tìm về cảm nghiệm tôn giáo, mặc khải Kitô giáo và nhất là Kinh Thánh, như nguồn cảm hứng luôn mới mẻ.

Về mối tương quan giữa nghệ thuật và phụng tự, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhắc nhở rằng: “Giáo Hội đã mời gọi nghệ thuật đến phục vụ Phụng vụ, ủy thác cho nghệ thuật nhiệm vụ giúp đỡ con người trong cuộc đối thoại với Thiên Chúa… giúp cho con người cử hành phụng tự chân chính qua việc yêu thương đồng loại và phụng sự Đấng Toàn năng”.[18]

Vì lý do ấy, nghệ thuật thánh giữ một vai trò xã hội và tinh thần: nó là ký ức của điều đã xảy đến và loan báo điều sẽ đến; nó là gia sản lịch sử cần được bảo tồn. Thời nay người ta khai quật các di tích lịch sử để truy tầm nguồn gốc của dân tộc. Tại sao Giáo Hội không làm như vậy để qua các tác phẩm nghệ thuật của mỗi thời đại, khám phá đời sống đức tin của dân Thiên Chúa?[19]

II. GIÁO HỘI VÀ NGHỆ THUẬT: TRIỀU GIÁO HOÀNG BENEDICTO XVI

Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI rất quan tâm đến mối tương quan giữa đức tin và nghệ thuật. Trong cuộc gặp gỡ các nghệ sĩ tại nhà nguyện Sistina ngày 21/11/2009, ngài nói như sau: “Tôi ước ao bày tỏ và lặp lại tình hữu nghị giữa Giáo Hội với thế giới nghệ thuật, một tình hữu nghị keo sơn, bởi vì ngay từ đầu, Kitô giáo đã nhận ra giá trị của các nghệ thuật và đã sử dụng khôn khéo những ngôn ngữ khác nhau của nghệ thuật để thông chuyển sứ điệp cứu độ. Tình hữu nghị này cần được cổ vũ và hỗ trợ, ngõ hầu được chân chính và phong phú, thích hợp với thời đại, và đáp ứng với những biến đổi xã hội và văn hóa”. Cũng trong buổi gặp gỡ này, ngài nhắc lại cuộc gặp gỡ lịch sử của vị tiền nhiệm, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, với các nghệ sĩ diễn ra 45 năm về trước, cũng tại nhà nguyện Sistina, với bức họa thời danh của Michelangelo “Ngày chung thẩm”. Bàn về những khó khăn của thời nay, ngài nói: “Làm cách nào để mang lại cho con người niềm tin tưởng phấn khởi, làm cách nào khuyến khích con người tìm lại con đường, ngẩng đầu lên hướng đến chân trời mới, ước mơ một cuộc sống xứng đáng với phẩm giá của mình nếu không nhờ đến cái đẹp? […] Thực vậy, một chức năng cốt yếu của cái đẹp chân chính, như ông Platon đã nêu bật, đã truyền thông cho con người một cú “sốc”, lay tỉnh con người, làm cho nó ra khỏi chính mình, ra khỏi kiểu sống tà tà cho qua ngày. Cái đẹp cũng ví như cái đòng gây chấn thương, gây ra đau đớn, nhưng nhờ vậy mà nó đánh thức con người, mở đôi mắt của tâm và trí, chắp cánh cho nó, nhấc nó lên cao. […] Cái đẹp chân chính […], khơi dậy trong trái tim nỗi lưu luyến, niềm khao khát muốn biết, muốn yêu, muốn đến với Kẻ Khác, đến với Kẻ vượt quá mình. Nếu chúng ta để cho cái đẹp chạm tới mình cách sâu xa, để cho nó gây thương tích, để cho nó mở mắt ra, bấy giờ ta sẽ tái khám phá niềm vui của sự nhìn ngắm, của khả năng nắm bắt ý nghĩa sâu xa của cuộc sống, của Mầu nhiệm mà chúng ta là thành phần, và từ đó chúng ta có thể múc lấy sự viên mãn, hạnh phúc, sự mê say với nhiệm vụ hằng ngày. […] Cái đẹp xuất hiện trong vũ trụ, mà các tác phẩm nghệ thuật muốn diễn tả, nhờ khả năng mở rộng chân trời của ý thức, hướng tới cõi vô biên, có thể trở thành con đường dẫn tới Đấng Siêu việt, tới Mầu nhiệm tối hậu, tới Thiên Chúa. Nghệ thuật, dưới những lối diễn đạt khác nhau, vào lúc đối diện với những băn khoăn của cuộc sống, với những chủ đề căn bản về ý nghĩa cuộc sống, có thể mang lấy chiều kích tôn giáo và biến thành một lộ trình suy tư sâu đậm và tôn giáo. Quý nghệ sĩ thân mến, […] quý vị là những người chăm sóc bảo vệ cái đẹp […]. Đức tin không tước đoạt tài năng của quý vị, trái lại nâng cao và nuôi dưỡng nghệ thuật, khuyến khích vượt qua những rào cản để chiêm ngưỡng cứu cánh tối hậu, là mặt trời không xế bóng mang lại ánh sáng và làm đẹp cho hiện tại”.

Trước buổi gặp gỡ các nghệ sĩ vừa nói, Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI đã đề cập đến mối tương quan giữa thần học và nghệ thuật được thiết lập từ thời Trung Cổ, trong hai bài huấn từ nhân buổi tiếp kiến chung ngày thứ Tư hàng tuần. Khi nhắc đến kiến trúc Romanic và Gotic của các nhà thờ chánh tòa thời Trung Cổ như biểu tượng của đức tin, trong huấn từ ngày 18/11/2009, ngài nói: “Đức tin Kitô giáo, đâm rễ sâu trong lòng các tín hữu vào thời ấy, không những đã phát sinh các kiệt tác về văn chương, tư tưởng triết học và thần học, nhưng còn gợi hứng cho những sáng tác nghệ thuật thời danh nhất của văn hóa nhân loại, đó là các nhà thờ chánh tòa”. Sau khi đã mô tả các bức tượng điêu khắc, các tấm kính tỏa sáng, các cơ cấu kiến trúc, ngài nói thêm: “Tôi muốn nêu bật hai yếu tố của nghệ thuật Romanic và Gotic vẫn còn hữu ích đối với chúng ta. Thứ nhất: không thể nào hiểu được các công trình nghệ thuật tại châu Âu của các thế kỷ trước đây nếu không lưu ý đến cái tâm tình tôn giáo đã gợi hứng cho chúng. Marc Chagall, một nghệ sĩ nghiên cứu cuộc gặp gỡ giữa mỹ học và đức tin, đã viết rằng ‘các họa sĩ đã chấm bút lông trên đĩa đựng màu là Kinh Thánh’. Khi đức tin, đặc biệt là được cử hành trong phụng vụ, gặp gỡ nghệ thuật, thì tạo ra một hòa điệu tuyệt tác, bởi vì cả hai đều muốn nói về Thiên Chúa, làm cho Đấng vô hình trở thành hữu hình. […] Yếu tố thứ hai: sức mạnh của nghệ thuật romanic và sự rạng rỡ của nghệ thuật gotic nhắc nhở chúng ta rằng con đường của cái đẹp (via pulchritudinis) là một lộ trình ưu tiên và hấp dẫn để tiếp cận Mầu nhiệm Thiên Chúa. Cái đẹp mà các văn sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ, nghệ sĩ chiêm ngắm và diễn đạt bằng ngôn ngữ riêng của họ, cái đẹp ấy là gì nếu không phải là phản ánh của sự rạng ngời của Ngôi Lời nhập thể? […] Anh chị em thân mến, xin Chúa giúp chúng ta tái khám phá mỹ đạo như là một trong những lộ trình, có lẽ hấp dẫn hơn cả, để gặp gỡ và yêu mến Thiên Chúa”.[20]

Trong buổi yết kiến chung ngày 31/08/2011, Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI đã nói đến việc khôi phục lại ý nghĩa của via pulchritudinis: “Đôi khi anh chị em đứng trước một bức tượng, một bức tranh, hoặc nghe một bài thơ hay một bản nhạc, anh chị em đã cảm thấy xúc động, hân hoan, và anh chị em đã thấy rằng trước mặt mình không chỉ có vật chất, một tảng đá hay một pho đồng, một tấm vải, một đống chữ viết hay một chùm âm thanh, nhưng là có cái gì cao cả hơn, cái gì đang ‘nói’, có khả năng đụng chạm đến con tim, chuyển thông một sứ điệp, nâng cao tâm hồn. Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của óc sáng tạo của con người đi tìm hiểu ý nghĩa của một thực tại, và chuyển thông qua ngôn ngữ của hình thề, màu sắc, âm thanh. Nghệ thuật có khả năng diễn tả nhu cầu con người muốn đi xa hơn cái mình đang thấy, biểu lộ sự khao khát và tìm kiếm cõi vô biên. Nghệ thuật là một cánh cửa mở đến vô biên, mở ra đến cái đẹp và sự thật vượt lên đời thường. Một tác phẩm nghệ thuật có thể mở mắt của trí tuệ và con tim, thúc đẩy lên cao.

Cũng trong bài huấn từ ấy, Đức Giáo Hoàng thêm vài nhận xét về các tác phẩm nghệ thuật hình thành nhờ đức tin: “Chúng là những những con đường dẫn đến Thiên Chúa, Vẻ Đẹp tối cao; hơn thế nữa, chúng giúp tăng trưởng mối tương quan với Ngài trong cầu nguyện. Đó là những công trình phát sinh từ đức tin và biểu lộ đức tin. Một thí dụ có thể thấy khi thăm viếng một nhà thờ chánh tòa kiểu Gotic: chúng ta thấy bị thu hút với những nét cao vút đưa cặp mắt và tâm hồn chúng ta lên cao, và đồng thời chúng ta cảm thấy mình bé nhỏ nhưng lại ước ao được sống tràn trề… Hoặc khi chúng ta bước vào một ngôi thánh đường kiểu Romanic: chúng ta cảm thấy được mời gọi hãy hồi tâm để cầu nguyện. Chúng ta nhận thấy những ngôi đền nguy nga ấy gói ghém đức tin của biết bao nhiêu thế hệ. Hoặc khi chúng ta nghe một bản thánh ca làm rung động con tim, ta thấy tâm hồn được mở rộng để hướng lên Chúa […] Các bạn thân mến, tôi mời các bạn hãy khám phá tầm quan trọng của mỹ đạo để giúp cho việc cầu nguyện, cho việc sống tương quan thân mật với Chúa”.[21]

III. GIÁO HỘI VÀ NGHỆ THUẬT: NGÀY HÔM NAY

Hiện nay, Hội Đồng Giáo Hoàng về Văn Hóa đang xúc tiến chương trình “Tiền đường chư dân” (atrium gentium). Thuật ngữ này lấy từ Kinh Thánh, ám chỉ một khoảng không gian tại đền thờ Giêrusalem không dành riêng cho người Do Thái, nhưng tất cả mọi người được tự do lui tới, bất kỳ thuộc tín ngưỡng, ngôn ngữ, văn hóa nào. Đức Hồng y Gianfranco Ravasi, chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Văn Hóa, muốn sử dụng thuật ngữ ấy để áp dụng vào những nơi tiếp xúc và đối thoại với những người ở ngoài Giáo Hội, những người thuộc các tôn giáo khác và thậm chí những người xa lạ với các tín ngưỡng. Đức Giáo Hoàng Phanxicô lại muốn mở ra cho những người “ở ngoại ô của cuộc sống”.[22] Trong bối cảnh này, cái đẹp được sử dụng như một chủ đề cho cuộc đối thoại.

Đừng kể những cuộc hội thảo được tổ chức dưới tiêu đề “Tiền đường chư dân”, cuộc đối thoại nghệ thuật còn được diễn ra qua việc tham gia của Tòa Thánh vào những cuộc triển lãm hội họa, văn nghệ quốc tế (Venezia, Torino) với những gian hàng riêng,[23] hoặc những đại hội âm nhạc đại kết (nghĩa là sự tham gia của ca đoàn thuộc những Giáo Hội khác nhau).[24]

Riêng về các văn kiện dưới triều đại Đức Giáo Hoàng Phanxicô, ta có thể kể đến Thông điệp Lumen fidei (05/07/2013).[25] Tuy không trực tiếp đề cập đến nghệ thuật, nhưng ở các số 29-31, người ta có thể đọc thấy những chủ đề có liên quan đến mối liên hệ giữa đức tin-ánh sáng, đức tin-thấy-nghe. Đức tin được trình bày như thủ đắc một cái nhìn mới, “thay đổi cặp mắt”: Đức tin biến đổi toàn thể con người tùy theo mức độ con người tiếp nhận tình yêu. Chính trong sự gặp gỡ giữa đức tin và tình yêu mà con người nhận ra dạng tri thức đặc thù của đức tin, với sức mạnh thuyết phục, khả năng soi sáng bước chân chúng ta. Đức tin hiểu biết theo mức độ liên kết với tình yêu, vì tình yêu sẽ mang đến ánh sáng chiếu soi. Sự hiểu biết của đức tin được khởi phát khi chúng ta lãnh nhận tình yêu vô biên của Thiên Chúa, một tình yêu biến đổi chúng ta tận bên trong và làm cho chúng ta có thể nhìn thực tại với đôi mắt mới”.[26] Như vậy có thể nói rằng, mục tiêu của nghệ thuật thánh là trở nên “tấm gương của dung nhan của Đức Giêsu”, trở thành chứng tá của sự biến đổi cái nhìn mà đức tin mang lại.

Thông điệp viết tiếp: “Con người tâm linh tìm cách nhận ra những dấu hiệu của Thiên Chúa nơi những cảm nghiệm thường ngày của cuộc sống, qua những chu kỳ của tứ thời bát tiết, qua những hoa trái trổ sinh và trong những biến chuyển của vũ trụ. Thiên Chúa là ánh sáng, và những ai thành tâm tìm kiếm ngài thì có thể gặp Ngài”.[27] Như vậy, nếu ánh sáng mặc khải chiếu soi tất cả mọi thực tại, thì vai trò của nghệ thuật là làm sao giúp cho con người nhận ra ánh sáng của Thiên Chúa. Nghệ thuật tôn giáo cần chứng tỏ những dấu hiệu của sự hiện diện của Thiên Chúa trong những hiện tượng thiên nhiên vây quanh ta. Hơn nữa, nếu chân lý đức tin gắn liền với thực tại lịch sử, thì ta cũng có thể nói rằng lịch sử của nghệ thuật Kitô giáo là chứng tá cho lịch sử của Thiên Chúa với nhân loại, chứng tá của đức tin. Đức tin mang lại ý nghĩa cho lịch sử nghệ thuật. Lịch sử nghệ thuật Kitô giáo là một chứng từ cho thấy đức tin soi sáng tất cả mọi thực tại của cuộc sống con người.

KẾT LUẬN

Trong bài này, chúng tôi trình bày tương quan giữa Giáo Hội và nghệ thuật từ Công Đồng Vatican II đến nay. Giáo Hội nhiều lần khẳng định mối tình hữu nghị với nghệ thuật, đã có từ nhiều thế kỷ. Việc lặp đi lặp lại điều ấy cho thấy có gì không ổn đang xảy ra. Thật vậy, nghệ thuật đang trải qua một cuộc khủng hoảng: cơn khủng hoảng truyền thông. Thay vì dẫn đưa con người đến Mầu nhiệm, thì ngày nay, nghệ thuật chỉ thu hút sự chú ý đến chính mình, ca tụng chính mình, nghĩa là nghệ sĩ. Nghệ thuật không còn giúp cho người tín hữu nâng lên Mầu nhiệm nữa.[28] Một khi nghệ thuật chỉ đi tìm cái gì hữu dụng, chứ không mở rộng đến chân lý và sự thiện, thì khó trở thành dấu chỉ hướng đến Thiên Chúa.

Vì thế, vấn đề là cần làm sao để nghệ thuật hướng đến cái đẹp thật sự. Và đây chính là ơn gọi của nghệ sĩ Kitô hữu, đó là bằng chứng cho thấy đức tin có khả năng biến đổi nghệ thuật, khiến nó trở thành khí cụ phục vụ sự thật, tình liên đới nhân loại. Ở số 51, thông điệp sử dụng từ ngữ kiến trúc nghệ thuật, nhưng hiểu theo một nghĩa rộng hơn, tức là xây dựng các mối tương quan trong xã hội: Ánh sáng đức tin có thể lượng giá sự phong phú của những tương giao nhân loại, khả năng chịu đựng, trở nên đáng tin, làm giầu cho đời sống chung. Đức tin không kéo chúng ta ra khỏi thế giới, cũng như làm chúng ta vô tâm đối với sự dấn thân hoạt động thật đặc biệt của những con người trong thời đại chúng ta. Nếu thiếu vắng một tình yêu đáng tin tưởng, sẽ chẳng còn điều gì có thể giữ cho con người được hiệp nhất. Lúc đó sự hiệp nhất giữa chúng ta chỉ mang tính thực dụng, vụ lợi, do sợ hãi, chứ không còn đặt nền trên hạnh phúc của việc sống chung với nhau, hay trên niềm vui chỉ vì có sự hiện diện của người khác. Đức tin giúp nhận ra cấu trúc của những mối tương giao nhân loại, vì đức tin có nền tảng tối hậu và cứu cánh chung cuộc trong Thiên Chúa và trong tình yêu của Ngài, từ đó chiếu sáng công trình xây dựng các mối tương giao, phục vụ cho công ích. Đức tin là ân huệ cho tất cả mọi người, một ân huệ chung, ánh sáng đức tin không chỉ chiếu soi bên trong Giáo Hội, cũng không chỉ dùng để xây dựng thành đô vĩnh cửu đời sau; đức tin cũng giúp chúng ta xây dựng các cộng đồng xã hội, để cùng tiến bước về một tương lai tràn đầy hy vọng”.[29]

Để kết thúc, chúng ta hãy đọc đoạn văn của Đức Thánh Cha Phanxicô trong Tông huấn Evangelii gaudium (Niềm vui Tin mừng), trong đó “mỹ đạo” được liên kết với hoạt động loan báo Tin mừng và huấn giáo của Giáo Hội:

Mọi hình thức huấn giáo cần chú ý tới via pulchritudinis, “con đường của cái đẹp”. Rao giảng Đức Kitô có nghĩa là cho thấy rằng tin Ngài và theo Ngài không chỉ là điều đúng và chính đáng, mà còn là một cái gì đẹp, có khả năng đổ đầy đời sống bằng sự rực rỡ mới mẻ và niềm vui sâu xa, ngay cả giữa những hoàn cảnh khó khăn. Thế nên mọi cách diễn tả cái đẹp đích thực đều có thể được nhìn nhận là một con đường dẫn tới sự gặp gỡ Chúa Giêsu. Nó không liên quan gì tới việc cổ vũ một thứ học thuyết tương đối về thẩm mỹ[130] vốn coi nhẹ mối tương quan bất khả phân giữa chân, thiện và mỹ, nhưng đúng hơn, nó là một sự quí chuộng mới đối với cái đẹp như là phương tiện làm rung động trái tim con người và giúp cho sự thật và sự tốt lành của Đức Kitô Phục Sinh trở nên rạng rỡ trong đó. Như Thánh Augustinô nói, nếu chúng ta chỉ yêu cái gì đẹp,[30]thì Con Chúa nhập thể, hiện thân của mặc khải về cái đẹp vô biên, là Đấng đáng yêu tột độ và lôi kéo chúng ta đến với Ngài bằng sợi dây tình yêu. Vì vậy một sự đào luyện theo via pulchritudinis phải là một thành phần trong cố gắng của chúng ta để bước vào đức tin. Mỗi Giáo Hội địa phương phải khuyến khích việc sử dụng nghệ thuật trong truyền giáo, bằng cách dựa trên những kho tàng của quá khứ nhưng đồng thời cũng sử dụng những cách thể hiện đa dạng đương thời để thông truyền đức tin bằng một “ngôn ngữ dụ ngôn” mới”. Chúng ta phải đủ mạnh dạn để khám phá ra những ký hiệu mới và những biểu tượng mới, da thịt mới, để thông truyền lời, cùng với những cách biểu hiện khác nhau của cái đẹp được ưa thích trong các nền văn hoá khác nhau, gồm cả những hình thái phá cách của cái đẹp, tuy có thể ít quan trọng đối với những người rao giảng Tin Mừng, nhưng lại đặc biệt hấp dẫn đối với những người khác”.[31]

***

Phụ thêm

 

1/. Những văn kiện của Tòa thánh về “mỹ đạo” sẽ còn được nói đến trong văn kiện của Hội Đồng Giáo Hoàng về Văn Hóa.

Thông điệp Laudato si của Đức Giáo Hoàng Phanxicô (24/5/2015) cũng nhiều lần nhắc đến cái đẹp trong bối cảnh bảo vệ môi sinh. Khởi đi từ Thiên Chúa, nguồn gốc vẻ đẹp của vũ trụ (số 12), thông điệp nhiều lần nói đến cái đẹp trong thiên nhiên (số 12). Chiêm ngắm vẻ đẹp của thiên nhiên dễ đưa ta hướng đến Thiên Chúa (số 238). Mặt khác, thông điệp cũng áp dụng từ “đẹp” cho những công trình của con người (số 45; 119) hoặc cho những tương quan xã hội (số 11). Ý thức rằng vẻ đẹp của môi trường đang bị tàn phá do lòng tham của con người (số 34), thông điệp nhắc nhở trách nhiệm của con người bảo vệ cái đẹp của thiên nhiên. Lời nguyện kết thúc (số 243) không những nhắc đến việc con người có thể nâng tâm hồn lên tới Thiên Chúa khi chiêm ngắm vẻ đẹp của vũ trụ (số 238), nhưng còn ước mong sẽ được chiêm ngắm chính Thiên Chúa là vẻ đẹp trong đời sống vĩnh cửu.

2/. Ngoài ra, cần nhắc đến hai văn kiện của Tòa Thánh bàn về cái đẹp đối với đời sống thánh hiến:

- Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, Tông huấn hậu thượng hội đồng Vita consecrata (Đời sống thánh hiến), đã trình bày đời dâng hiến như là “say mê và tìm kiếm cái đẹp” (philocalia), một chủ đề khá quen thuộc trong thần học đan tu của các Giáo Hội Đông Phương.[32]

- Bộ Các Hội Dòng Đời Sống Thánh Hiến và Tu Đoàn Tông Đồ, Lá thư thứ ba gửi các người thánh hiến: Chiêm ngưỡng (15/10/2015) đào sâu thêm khía cạnh này: “đi tìm cái đẹp” (số 19-32), và “đào tạo theo hướng cái đẹp” (số 45-63).

3/. Riêng tại Việt Nam, có thể bổ túc thêm với vài tài liệu:

- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam:http://nghethuatthanh.net/

- Ủy ban Thánh Nhạc trực thuộc HĐGM, Thánh nhạc và đời sống đức tin của Dân Chúa tại Việt Nam 50 năm qua (12/10/2010), tại địa chỉ: http://hdgmvietnam.org/thanh-nhac-va-doi-song-duc-tin-cua-dan-chua-tai-viet-nam-50-nam-qua-1/2311.105.18.aspx

- Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Hướng dẫn mục vụ thánh nhạc (Tháng 4 năm 2014)

- Lê Hiếu, Mỹ thuật Công giáo Việt Nam theo dòng thời gian, trong tập sách “5 năm nhìn lại 2008-2013” (Giáo xứ Mai Khôi – Ban Mỹ Thuật Đaminh Dominiart), Lưu hành nội bộ, Tp.HCM 2013, trang 8-120.

- Nhà Thờ Công giáo ở Việt Nam. Kiến trúc – Lịch sử. NXB Tổng Hợp, Tp. HCM 2004.

- Dominiart: Mỹ Thuật Đaminh: http://dominiart.net/

 

 

 Nguồn: Mauro Mantovani, S.D.B.http://catechesis.net/

 


[1]Tác giả hiện là viện trưởng Đại Học Salesianum Roma. Trong bài này điểm qua những văn kiện của Giáo Hội từ Công Đồng Vatican II đến nay, được phân làm ba giai đoạn: 1/ Từ Công Đồng Vatican II đến Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. 2/ Triều Giáo Hoàng Benedicto XVI. 3/ Hiện nay. Nguyên tác: Chiesa ed arte: dal Concilio Vaticano II ad oggi trên tạp chí “Conservation Science in Cultural Heritage”, vol.14 (dec.2014),pp.127-143.

[2] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thư gửi các nghệ sĩ, ngày 04/04/1999, số 10:http://catechesis.net/index.php/van-kien-giao-hoi/duc-giao-hoang/thu-luan-luu/703-thu-duc-thanh-cha-gioan-phaolo-ii-gui-cac-nghe-si-1999

[3] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium (Phụng vụ thánh), ngày 04/12/1963, số 122.

[4]Công Đồng Vatican II, Sắc lệnh Inter mirifica (Những phát minh kỳ diệu), ngày 04/12/1963, số 6.

[5]PAPA R., Arte e Morale. La profonda attualità del Decreto Conciliare Inter Mirifica, Riflessioni sull’arte - Zenit (17/12/2012), n. 55, pp. 1-2.

[6] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Gaudium et spes (Vui mừng và hy vọng), ngày 07/12/1965, số 53-62.

[7]Ibid., số 53.

[8]Xc. Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI, Diễn từ trong cuộc gặp gỡ các nghệ sĩ , 21/11/2009.

[9]Ngoài ra, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI còn nhiều lần nói đến sự tôn trọng của Giáo Hội đối với nghệ thuật, chẳng hạn như diễn từ ngày 20/02/1965 dành cho Học viện Nghệ thuật “Beato Angelico”, ngày 08/10/1977, nhân dịp khánh thành cuộc triển lãm về thánh Phaolô. Những tài liệu này được sưu tập do: CHENIS C., Fondamenti teorici dell’arte sacra. Magistero postconciliare, Las, Roma 1991. PAPA R., Discorsi sull’arte sacra, Cantagalli, Siena, 2012.

[10]Các văn kiện của các Giáo Hoàng thường được phân hạng như sau: Tông hiến, thông điệp, tông huấn, tông thư, sứ điệp, diễn từ, huấn dụ. Tuy nhiên, dưới thời Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, bên cạnh hình thức các “tông thư” cổ điển, ngài còn viết những Thư (gửi các phụ nữ, gửi các người thiếu nhi,.v.v...), với giọng văn đối thoại thân mật. Thư gửi các nghệ sĩ được xếp trong loại này. Bản dịch Việt ngữ của linh mục Phêrô Đặng Xuân Thành:http://catechesis.net/index.php/van-kien-giao-hoi/duc-giao-hoang/thu-luan-luu/703-thu-duc-thanh-cha-gioan-phaolo-ii-gui-cac-nghe-si-1999

[11]Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2500-2503.

[12]Ibid., số 2550-2551.

[13]Ibid., số 2502.

[14]Ibid., số 2503. Chú thích của người dịch. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo còn đề cập đến cái đẹp dưới nhiều khía cạnh khác nhau, chẳng hạn: vẻ đẹp của vũ trụ do trật tự hài hòa (số 341), như là khởi điểm để con người nhận biết Thiên Chúa (số 32; 33; 41); vẻ đẹp của buổi cử hành phụng vụ (số 1157), vẻ đẹp giúp ta cầu nguyện (số 1162). Các ảnh tượng thánh được đề cập ở các số 1159-1162; 2129-2132. Công trình cứu chuộc được nhìn như là khôi phục vẻ đẹp nguyên tuyền (số 1701); con người cần khám phá vẻ đẹp của thân thể (số 2519). Sau cùng, số 2727 nhắc nhở chúng ta hãy biết tự đào tạo để khám phá cái đẹp chân thật và cái đẹp giả dối (số 2727). Nên biết là ở số 210, Sach Giao Lý giải thích đoạn văn sách Xuất Hành 33,18-19 theo nghĩa là Thiên Chúa mặc khải vẻ đẹp của Ngài.

[15]Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thư gửi các nghệ sĩ, ngày 04/04/1999, số 10.

[16]Ibid., số 16.

[17]Ibid., số 12.

[18]Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Diễn từ dành cho các người tham dự hội nghị về “Loan báo Tin mừng và các tác phẩm nghệ thuật của Giáo Hội ở Italia”, ngày 02/05/1986.

[19]Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Diễn từ dành cho các người tham dự hội nghị toàn quốc Italia về nghệ thuật thánh, ngày 27/4/1981.

[20]Xem thêm những diễn văn nhân dịp cung hiến đền thờ kính Thánh Gia ở Barcelona, tháng 11 năm 2010.

[21]Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI cũng trình bày đề tài “Cái đẹp của cử hành phụng vụ”trong Tông huấn Sacramentum caritatis (22/2/2007), số 35 và 41.

[22]Xem: www.atriumgentium.org; www.cortiledeigentili.com; FONTANA S., Nel Cortile dei Gentili Benedetto XVI invita atei e credenti a parlare di Dio, L’Occidente, 2010; LEUZZI L., La questione di Dio oggi. Il nuovo cortile dei gentili, Libreria Editrice Vaticana, Città del Vaticano2010; INTROVIGNE M., Il cortile dei gentili. La Chiesa e la sfida della nuova religiosità: “sette”, nuove credenze, magie, San Paolo, Cinisello Balsamo2010.

[23]Chẳng hạn như: Biennale di Venezia (1/6-24/11/ 2013 với chủ đề: sự tạo dựng); Salone Internazionale del Libro di Torino (8-12/5/2014).

[24]Chẳng hạn ca đoàn Sistina của Tòa Thánh tham dự buổi cử hành phụng vụ ở Mosca (tháng 5 năm 2014), ca đoàn của Westminster Abbey (Anh giáo) hát trong Thánh lễ tại đền thờ thánh Phêrô (29/06/2014).

[25]Cf. Papa R. Benedetto XVI,Francesco e l’arte di vedere il volto di Cristo, Zenit.org (29/04/2013), pp.1-2; Papa Francesco, la “Lumen Fidei” e l’arte Sacra [Prima parte], Zenit.org (22/7/2013), pp. 1-3; Papa Francesco, la “Lumen Fidei” e l’arte Sacra [Seconda parte], Zenit.org (05/08/2013), pp. 1-4; Papa Francesco, la “Lumen Fidei” e l’arte Sacra [Terza parte], Zenit.org (19/08/2013), pp. 1-3.

[26]Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Thông điệp Lumen fidei (Ánh sáng đức tin), ngày 05/07/2013, số 26: http://catechesis.net/index.php/van-kien-giao-hoi/duc-giao-hoang/thong-diep/1820-thong-diep-lumen-fidei-anh-sang-duc-tin-cua-dgh-phanxico-ngay-29-06-2013

[27]Ibid., số 35.

[28]EPICOCO L.M., Io vedo il tuo volto. Arte e liturgia, Tau Editrice, Todi, 2011, pp. 40-41.

[29]Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Thông điệp Lumen fidei (Ánh sáng đức tin), ngày 05/07/2013, số 51: http://catechesis.net/index.php/van-kien-giao-hoi/duc-giao-hoang/thong-diep/1820-thong-diep-lumen-fidei-anh-sang-duc-tin-cua-dgh-phanxico-ngay-29-06-2013

[30]De Musica, VI, 13,38; Confessiones IV, 14,20.

[31] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Tông huấn Evangelii gaudium (Niềm vui Tin mừng), ngày 24/11/2013, số 167: http://catechesis.net/index.php/van-kien-giao-hoi/duc-giao-hoang/tong-huan/1763-tong-huan-evangelii-gaudium-niem-vui-tin-mung-cua-dgh-phanxico-ngay-24-11-2013-2

[32]Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Vita consecrata (Đời sống thánh hiến), ngày 25/03/1996, các số 15d; 16b; 19d; 20b; 21d; 24a; 28a; 41b; 64c; 66a; 75b.c; 104d; 107b; 109a; 111a.: http://catechesis.net/index.php/van-kien-giao-hoi/duc-giao-hoang/tong-huan/1749-tong-huan-vita-consecrata-doi-song-thanh-hien-cua-dgh-gioan-phaolo-ii-ngay-25-03-1996-1