Kitô Giáo Với Các Tôn Giáo

Ngày 30 tháng 9 năm 1996, sau 4 năm nghiên cứu, Ủy ban Quốc tế thần học đã phát hành văn kiện “Kitô giáo và các tôn giáo”. Văn kiện được ấn hành bằng tiếng Italia trong báo La Civiltà Cattolica tập 1 năm 1997, dài gần 40 trang (146-183). Ngoài nhập đề và kết luận, nội dung gồm có 3 phần chính. Phần thứ nhất (có tính cách miêu tả) trình bày tình hình các vấn đề được gợi lên trong cuộc tranh luận thần học về các tôn giáo. Phần thứ hai (dài hơn cả) vạch ra những nguyên tắc căn bản của thần học để giải đáp vấn đề. Những nguyên tắc này thuộc bốn chiều kích:

– Kế hoạch cứu rỗi của Chúa Cha;
– Vai trò trung gian của Đức Giêsu;
– Tác động phổ quát của Thánh Thần;
– Vai trò của Hội thánh.

Phần thứ ba rút ra những hệ luận về lý thuyết và thực hành, liên quan tới giá trị cứu độ của các tôn giáo, vấn đề mặc khải, chân lý, đối thoại tôn giáo.

Văn kiện mở đầu với việc ghi nhận một hiện tượng của xã hội hiện đại là sự giao lưu giữa các dân tộc và các nền văn hóa trên thế giới, hậu quả của các cuộc di dân cũng như các trao đổi thông tin thương mại. Trong bối cảnh đó, vấn đề đối thoại tôn giáo được đặt ra. Mặc dù xem ra thế giới ngày nay chịu ảnh hưởng của phong trào tục hóa, nhưng cũng có những dấu hiệu chứng tỏ rằng con người hiện đại vẫn còn nhờ đến tôn giáo để tìm giải đáp cho những vấn đề sinh tử. Các cuộc đối thoại tôn giáo có cơ hội rất lớn để giúp ích cho nhân loại, không những bằng cách mang lại giải đáp cho các vấn đề hiện sinh mà còn qua những công tác cụ thể đóng góp vào việc kiến tạo hòa bình và công lý trong xã hội. Kitô giáo không thể đứng bên lề cuộc đối thoại đó. Tuy nhiên, để cho cuộc đối thoại được hữu hiệu, người tín hữu cần nắm chắc những nguyên tắc thần học về giá trị của các tôn giáo. Văn kiện này ước mong cung cấp vài suy tư về những nguyên tắc đó, tuy biết rằng còn nhiều vấn đề chưa ngã ngũ.

PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ 

Trong phần thứ nhất, văn kiện rảo qua tình hình của những vấn đề tranh luận (status quaestionis) trong môn Thần học về các tôn giáo (=TG). Thực ra thì đây là một ngành còn mới mẻ, và còn đang mò mẫm về đối tượng, phương pháp và về cứu cánh.

A. Trước công đồng Vaticano II, thần học về các TG xoay quanh vấn đề giá trị của chúng trong lịch sử cứu rỗi, với hai lập trường chính:

1/ Một lập trường cho rằng các tôn giáo mang nhiều giá trị tích cực, vì dựa trên giao ước của ông Noe (Thiên Chúa mặc khải trong thiên nhiên và trong lương tâm con người). Tuy nhiên, các TG không có giá trị cứu rỗi; chúng chỉ hướng con người về Đấng Tạo hóa, và chúng cần được Đức Kitô kiện toàn. Đây là chủ trương của Jean Daniélou, Henri de Lubac.

2/ Lập trường thứ hai, tượng trưng bởi Karl Rahner, có cái nhìn tích cực hơn. Thiên Chúa ban ơn cứu rỗi cho hết mọi người. Thế nhưng con người không phải là những đơn tố lẻ loi, nhưng là thành phần của cộng đoàn xã hội. Các TG huấn luyện cho con người mở rộng đến chiều kích siêu việt, do đó giúp cho con người đón nhận ơn cứu rỗi của Thiên Chúa, nhờ đức tin (tuy chỉ là đức tin ám tàng fides implicita) và nhờ lòng bác ái với tha nhân (mà Đức Kitô nhìn nhận như là mến Chúa).

B. Sau công đồng, thần học về các TG đã mở rộng tầm nhãn giới và phương pháp, từ đó đã có những khuynh hướng khác nhau. Có những tác giả đã khước từ bàn về thần học của các TG, xét vì tính cách đa dạng của chúng. Cần phải nghiên cứu từng TG một, đi từ nguồn gốc và sự tiến triển của nó, chứ không nên gồm trọn tất cả vào một gói. Vì thế cần kiên nhẫn thu thập những dữ kiện mà các khoa lịch sử và hiện tượng cung cấp. Có người muốn nhấn mạnh tới khía cạnh thực tiễn nhằm cổ võ sự đối thoại, nhằm dẹp tan những đố kị hiềm thù, thay vì tranh luận về những nguyên tắc tín lý trừu tượng. Dù sao đi nữa, dù sớm hay muộn, thần học không thể nào tránh né phải đương đầu với ba câu hỏi căn bản khi tham dự các cuộc đối thoại TG, đó là:

1/ Kitô giáo nghĩ gì về vị trí của mình giữa lòng lịch sử nhân loại?
2/ Kitô giáo nghĩ gì về vai trò của các TG trong chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa?
3/ Sau đó, khi đối chiếu với từng tôn giáo cụ thể, người Kitô hữu phải đối chiếu so sánh những điểm tương đồng và khác biệt với tín ngưỡng của mình.

Hiện nay, có 5 vấn đề sau đây được tranh luận trong lãnh vực thần học về tôn giáo, đó là:

– Giá trị cứu độ của các TG.
– Chân lý của các TG.
– Quan niệm về Thượng đế.
– Địa vị của Đức Kitô.
– Sứ mạng truyền giáo của Giáo hội.

Trong mỗi vấn đề chúng ta thấy có nhiều chủ trương khác biệt và đôi khi đối nghịch nhau nữa.

1. Giá trị cứu độ của các TG

Chúng ta chấp nhận rằng các người ngoài Kitô giáo cũng được Thiên Chúa ban ơn cứu rỗi, qua những đường lối nhiệm mầu mà chỉ có Chúa biết. Tuy vậy, trên thực tế, các người ngoài Kitô giáo lại là tín đồ của các TG. Vì thế câu hỏi được nêu lên như sau: có thể nói là Thiên Chúa dùng các TG như là dụng cụ để ban ơn cứu độ cho các tín đồ của họ không? Có thể coi các TG như là trung gian cứu độ cho các phần tử của mình hay không? Có ý kiến thì trả lời là không; có ý kiến thì không muốn trả lời vì cho là vô nghĩa; có ý kiến trả lời rằng có. Đối với nhóm cuối cùng, người ta cũng thấy có nhiều khuynh hướng, tùy theo họ nhìn nhận vai trò trung gian của các TG một cách độc lập hay là tùy thuộc vào Đức Kitô.

Nhiều nhà thần học công giáo nhìn nhận cho các TG vai trò trung gian theo nghĩa là các TG đào luyện cho các tín đồ cảm thức đạo đức, nhờ vậy họ dễ đón nhận ơn cứu độ của Đức Kitô. Nhưng có những ý kiến đi xa hơn nữa, khi chủ trương Thiên Chúa sử dụng nhiều đường lối cứu độ song song, và vì thế có những TG được đặt làm trung gian biệt lập với con đường của Đức Kitô.

2. Chân lý của các tôn giáo

Vấn đề cứu rỗi của các TG đã làm lu mờ đi các cuộc tranh luận về chân lý của các TG. Nhiều người không còn muốn đặt vấn đề chân thực hay là sai lầm trong các TG nữa. Theo họ, chân lý của một TG không thuộc loại tri thức khách thể, và không thể khẳng định được đạo nào đúng, đạo nào sai. Chân lý của TG có tính cách hiện sinh: ai mà được cứu độ thì người đó ở trong chính đạo.

Nói khác đi, theo chủ trương của họ, tất cả các TG đều có thể đúng hết. Thoạt tiên, xem ra chủ trương này sẽ khuyến khích sự bao dung. Tuy nhiên, nếu xét kỹ thì sẽ thấy những hệ luận rất nguy hiểm. Thực vậy, trên thực tế, các TG trình bày nhiều đường lối trái nghịch nhau. Nếu nói rằng tất cả các TG đều có thể đúng hết thì cũng như nói rằng tất cả các TG đều có thể sai hết ! Chắc chắn rằng Kitô giáo không thể nào chấp nhận kết luận như vậy được.

3. Quan niệm về Thượng đế 

Có những quan điểm chủ trương rằng Thượng đế là Đấng Siêu việt, hoàn toàn vượt xa khả năng diễn tả của ngôn ngữ loài người. Mỗi TG chỉ có thể diễn đạt một góc cạnh của Mầu nhiệm vô biên, dựa theo cảm nghiệm của mình hoặc dựa theo truyền thống văn hóa mỗi nơi mỗi thời. Do đó, tuy rằng sự diễn tả các cảm nghiệm có khác biệt, nhưng tất cả đều đồng quy về một mối, tức là Mầu nhiệm của Siêu việt.

4. Địa vị của Đức Kitô 

Những vấn đề vừa điểm qua đều có ảnh hưởng tới cuộc tranh luận về vai trò của Đức Kitô, Thiên Chúa nhập thể, đối với sự cứu độ nhân loại. Đối lại với thần học cổ truyền nhìn nhận Đức Kitô là Đấng Cứu chuộc của toàn thể nhân loại, vài tác giả cho rằng Đức Kitô chỉ có giá trị mẫu mực, được đặt lên như là gương mẫu của việc tuân phục Thiên Chúa và yêu thương tha nhân, chứ không phải là trung gian duy nhất của ơn cứu độ nhân loại. Thậm chí có ý kiến còn muốn phớt lờ Đức Kitô, bởi vì (theo họ) như vậy mới có thể đối thoại liên tôn được: không thể đặt một vị lãnh đạo tôn giáo này cao hơn vị khác ! Tất cả đều bình đẳng với nhau trước mặt Thiên Chúa. Giả như có muốn đả động tới Đức Kitô, thì phải nhìn Ngài như là Ngôi Lời, như là Đức Kitô muôn thuở, vượt xa Đức Giêsu Nadarét.

5. Truyền giáo và đối thoại

Các cuộc tranh luận thần học về giá trị của các TG sớm muộn gì cũng đưa tới những hệ luận thực hành. Một cách cụ thể, phàm ai đã nhìn nhận các TG có giá trị trung gian cứu độ, thì tất nhiên không thể nói tới chuyện truyền giáo, khuyến khích các tín đồ của các TG hãy trở thành kitô hữu làm chi. Đạo ai người ấy giữ: mỗi người hãy cố gắng sống trung thực với đạo của mình.

Đối lại, việc truyền giáo không đồng nghĩa với việc khích bác coi rẻ các TG khác. Cần phải nhìn nhận tác động của Chúa Thánh thần trong lịch sử nhân loại, gieo rắc vô vàn mầm mống Chân Thiện Mỹ. Việc truyền giáo nhằm giúp triển nở các mầm mống đó đến mức sung mãn.

Sau khi đã cho thấy những vấn đề khó khăn trong thần học về các TG, sang phần thứ hai, văn kiện gợi lên vài nguyên tắc căn bản để giải quyết.

PHẦN THỨ HAI: NHỮNG NGUYÊN TẮC CĂN BẢN 

Bước sang phần thứ hai, văn kiện trình bày những suy tư chung quanh bốn điểm thần học căn bản, chi phối toàn thể cuộc tranh luận này.

– Ý định cứu độ phổ quát của Thiên Chúa.
– Vai trò trung gian duy nhất của Đức Kitô.
– Tác động phổ quát của Thánh thần.
– Chức vụ của Hội thánh làm nhiệm tích cứu độ.

I. Chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa

Tân ước cho ta biết rằng Thiên Chúa muốn cứu rỗi hết mọi người, không phân biệt màu da sắc tộc (1Tm 2,3-4). Chúng ta biết được kế hoạch của Thiên Chúa qua việc Ngài sai đức Giêsu đến với nhân loại, đến nỗi đã trao nộp đức Giêsu cho sự chết, ngõ hầu nhân loại được cứu rỗi (xc. Rm 5,8-11; 8,3-32; 2Cr 5,18-19). Kế hoạch đó đã được thành hình ngay từ trước khi tạo thành vũ trụ (xc. Ep 1,3-10). Nên lưu ý rằng tuy danh hiệu “Đấng Cứu độ” được Tân ước gắn với đức Giêsu (xc. Lc 2,11; Ga 4,42; Cv 5,31, v.v…), nhưng tiên vàn danh hiệu đó được dành cho Chúa Cha, nguồn sáng khởi của chương trình cứu độ (xc. 1Tm 1,1; 2,3; 4,10; Tt 1,3; 2,10; 3,4; Gđ 25).

Cựu ước đã hé mở vài viễn tượng về ơn cứu độ phổ quát, sẽ được kiện toàn với mặc khải trong đức Kitô.

– Ở đầu Kinh thánh, sách Sáng thế đã nói rằng hết mọi con người được tạo dựng theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa (xc. St 1,26; 9,6). Xét vì trong Tân ước, hình ảnh Thiên Chúa là đức Kitô (2Cr 4,4; Cl 1,15), nên nói được là hết mọi người đều được quy hướng về đức Kitô.

– Giao ước với ông Noe bao gồm hết mọi sinh linh trên mặt đất (xc. St 9,9.12.17-18).
– Nơi ông Abraham, tất cả các dòng tộc nhân loại đều được chúc phúc (St 12,3; xc 28,18).
– Trong những chương cuối của Isaia, chúng ta gặp thấy những đoạn văn nói đến sự cứu rỗi muôn dân trong khuôn khổ của sự cứu rỗi dành cho dân Israel (xc. Is 42,1-4; 49,6-8; 66,18-21; xem thêm Tv 86; 47,10).

II. Vai trò trung gian duy nhất của đức Giêsu 

Chúng ta có thể ghi nhận nhiều cách thức diễn đạt khác nhau về đề tài này ở trong Tân ước và trong các văn kiện gần đây của Giáo hội.

A. Trong Tân ước

Tân ước đã cho chúng ta biết kế hoạch cứu rỗi phổ quát của Thiên Chúa qua việc sai đức Giêsu đến với nhân loại. Vì thế không lạ gì mà ơn cứu rỗi được gắn liền với việc tin nhận đức Kitô, thí dụ như đoạn văn của Cv 4,12: “Ngoài đức Giêsu ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ danh đó mà được cứu độ”. Cách riêng đoạn văn của 1Tm 2,5-6 đã gắn liền ý định cứu rỗi phổ quát của Thiên Chúa với vai trò trung gian duy nhất của đức Giêsu Kitô: “Chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng Trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: đó là một con người, đức Kitô Giêsu, Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người”. Nên lưu ý là tác giả nói đến con người Giêsu, tức là Con Thiên Chúa làm người.

Bên cạnh những đoạn văn nói đến vai trò trung gian cứu độ của đức Giêsu Kitô qua việc nhập thể, chịu chết trên thập giá, cũng như những đoạn văn đòi hỏi con người phải bày tỏ lòng tin nơi đức Kitô để được cứu độ, chúng ta không nên bỏ qua những đoạn văn nói đến tác dụng cứu độ của Ngài vượt lên trên tầm mức lịch sử cũng như tầm ý thức của con người.

– Trước hết, có những đoạn văn nói đến tác động của đức Kitô đối với toàn thể tạo vật ngay từ khi tạo thành vũ trụ, chẳng hạn: 1Cr 8,6; 1,3-10; Dt 1,2; Cl 1,15-20. Mọi sự đã được dựng nên trong đức Kitô, nhờ Người và hướng tới Người.

– Thánh Phaolô đã đối chiếu đức Kitô với ông Ađam (xc 1Cr 15,20-22.44-49; Rm 5,12-21). Nếu ông Ađam đã gây ảnh hưởng tai hại cho toàn thể nhân loại, thì đức Kitô đã gây tác dụng cứu độ cho hết mọi người. Cũng như mỗi người đều mang hình ảnh của ông Ađam thì mỗi người cũng mang hình ảnh của đức Kitô.

– Thánh Gioan nói tới ảnh hưởng của Ngôi Lời chiếu soi hết mọi người (Ga 1,9). Dựa theo vài nhà chú giải, ở đây thánh Gioan không những nói tới Ngôi Lời hằng hữu, nhưng còn bao hàm Ngôi Lời nhập thể, Đấng đã mang ánh sáng đến trần gian.

Cần phải lưu ý tới toàn thể tư tưởng của Tân ươc, không nên nhấn mạnh tới một khía cạnh này mà bỏ qua khía cạnh khác. Chúng ta không được phép chỉ chú trọng tới ý định cứu rỗi phổ quát của Thiên Chúa mà không đếm xỉa đến vai trò của đức Kitô. Mặt khác, chúng ta cũng không được phép chỉ giới hạn ơn cứu rỗi vào những ai đã đích thị tuyên xưng danh Ngài. Ngoài ra, chúng ta cũng đừng nên quên thái độ của thánh Phaolô trong bài thuyết giảng ở thành phố Athènes (Cv 17,22-31). Mặc dù ca ngợi giá trị của các TG, thánh Phaolô đã không ngần ngại kêu gọi họ hãy đoạn tuyệt với quá khứ để quay về với đức Kitô.

B. Trong các văn kiện gần đây của Giáo hội

Công đồng Vaticano II và các văn kiện tiếp theo đã lấy lại vài chủ đề của các giáo phụ để diễn tả vai trò trung gian phổ quát của đức Kitô. Có 3 tư tưởng nổi bật hơn cả, đó là:

– Semina Verbi (Những hạt giống của Ngôi Lời);
– Ngôi Lời đã kết hợp với mỗi người;
– Đức Kitô là con người hoàn hảo.

1/ Tư tưởng “Những hạt giống (mầm mống) của Ngôi Lời” bắt nguồn từ thánh Giustinô (tk.2). Đối lại với các tôn giáo đa thần của Hy lạp, thánh Giustinô nhận thấy triết học là một đồng minh của Kitô giáo, bởi vì triết học biết theo lý trí, chân lý. Tuy nhiên, chỉ nơi đức Kitô ta mới tìm thấy chân lý toàn vẹn. Dù sao, Thiên Chúa đã ban cho hết mọi người được thông dự vào chân lý. Đức Kitô, Ngôi Lời và chân lý toàn vẹn, đã gieo những mầm chân lý vào lòng con người. Tư tưởng tương tự như vậy cũng gặp thấy nơi ông Clementê Alexanđria và thánh Irênê. Chúng ta gặp thấy tư tưởng này nơi nhiều bản văn của Công đồng Vaticanô II, chẳng hạn: AG 11.15; LG 16-17; NA 2.

2/ Đức Kitô đã kết hợp với mỗi người. Tư tưởng này được công đồng Vaticano II phát biểu ở Hiến chế “Vui mừng và Hy vọng” số 22. Nó bắt nguồn từ thời các giáo phụ khi chú giải dụ ngôn về vị mục tử nhân lành: Đức Kitô đến để tìm kiếm chúng ta là những con chiên lạc (Grêgôriô Nisa, Irênêo, Hilariô). Nhất là khi chú giải đoạn văn Ga 1,14 “Ngôi Lời làm người và trọ ở giữa chúng ta”, vài giáo phụ đã nói rằng Ngôi Lời đến ngự ở trong lòng của ta, nơi thâm tâm của mỗi người. Ngôi Lời ở trong ta và ta ở trong Ngài (thí dụ: Hilariô, Atanaxiô, Xirillô Alexanđria).

3/ Đức Kitô là con người hoàn hảo. Tư tưởng này được hiến chế “Vui mừng và Hy vọng” nói nhiều lần (số 22; 38; 41; 45). Nó dựa trên tư tưởng Tân ước nói về đức Kitô là hình ảnh Thiên Chúa và Ađam mới. Vài giáo phụ (như Tertullianô, Irênê) nói rằng khi Thiên Chúa nặn ra ông Ađam từ bùn đất thì đã nghĩ tới đức Kitô sẽ nhập thể rồi. Nói khác đi, mỗi con người đều mang hình ảnh của đức Kitô trong mình, và hướng tới việc kết hợp với Ngài.

Qua những điều vừa trình bày trên đây, chúng ta tạm kết luận như sau.

1. Kitô giáo có chiều kích phổ quát. Đây không phải là tham vọng bá chủ, nhưng là một sứ điệp mà Giáo hội muốn thông đạt cho nhân loại, đó là: Thiên Chúa muốn cho hết mọi người được cứu rỗi.

2. Chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa được mặc khải nhờ đức Kitô. Con người được cứu rỗi nhờ việc tin nhận đức Giêsu Kitô. Tuy nhiên, ta không nên coi nhẹ những đoạn văn của Tân ước nói đến tác động phổ quát của đức Kitô: Ngài đến trần gian để soi sáng cho hết mọi người. Nhiều giáo phụ đã lưu ý đến sự hiện diện của Ngài ngay từ buổi tạo dựng, qua những tư tưởng “mầm mống của Ngôi Lời”, “Đức Kitô Ađam mới”. Dù sao, nhờ cuộc Nhập thể, Tử nạn và Phục sinh mà đức Kitô bày tỏ sự hiện diện với con người cách gần gũi hơn.

3. Thực khó mà xác định được mối liên hệ giữa đức Kitô với những người không hề biết tới Ngài, mặc dù Ngài vẫn tác động nơi họ. Dù sao, Tân ước chỉ cho ta biết một kế hoạch duy nhất của Thiên Chúa dành cho hết mọi người: một kế hoạch được thực hiện qua trung gian của đức Kitô. Vì thế không thể nào chấp nhận có nhiều kế hoạch cứu rỗi song song, biệt lập với đức Kitô; không thể nào chấp nhận những trung gian hoàn toàn tách biệt khỏi đức Kitô.

III. Tác động phổ quát của Chúa Thánh Thần 

Kinh thánh nói đến tác động phổ quát của Thánh Linh: Thánh Linh tác động trong vạn vật và dĩ nhiên là trong tất cả mọi sinh linh. Nhưng ta không nên tách rời tác động của Thánh Linh khỏi tác động của đức Kitô.

Cựu ước đã cho thấy Thánh Linh hiện diện trong vũ trụ ngay từ khi tạo dựng (St 1,2; Kn 1,7), cách riêng đã ngự trong thần khí của mỗi người, khiến cho con người trở nên bạn hữu với Thiên Chúa (xc. Tv 104,29-30; Gióp 34,14-15; Gv 12,7). Đồng thời, chúng ta cũng biết rằng con người bị thần khí tối tăm xúi giục lìa xa Thiên Chúa (xc St 3,4-5). Tội lỗi là chính sự cắt đứt liên lạc với Thiên Chúa. Mặc dù vậy, Thiên Chúa không ngừng tìm kiếm con người, qua những giao ước khác nhau, với ông Noe (xc St 7,1tt), với ông Abraham và Moisen, và đặc biệt là qua Giao ước mới ở nơi Con của Ngài, nhập thể do quyền năng của Thánh Linh. Giao ước mới là giao ươc của Thánh Linh (2Cr 3,6). Tân ước xem ra muốn trình bày chiều kích phổ quát của giao ươc mới khi so sánh lễ Hiện xuống với hiện tượng tháp Babel (Cv 2,1-11; St 11,4). Ở tháp Babel, loài người bị phân tán chia rẽ vì bất đồng ngôn ngữ; nhưng nay Thánh Linh đã giúp cho con người tìm được sự hợp nhất của đức tin, bất chấp sự khác biệt ngôn ngữ.

Tác động của Thánh Linh gắn liền với tác động của đức Giêsu. Chính Thánh Linh đã tác động trên đức Giêsu khi thánh hiến và sai Người đi giải thoát chữa lành các nạn nhân của tội lỗi và ma qủy (Lc 4,16; Cv 10,38). Nhờ quyền năng Thánh Linh mà đức Kitô tự hiến mình cho Thiên Chúa Cha, thiết lập giao ước mới, mang giá trị phổ quát. Giao ước mới của Thánh Linh là chính giao ước của đức Kitô. Nhờ Thánh Linh mà hết mọi người có thể lãnh nhận công hiệu cứu độ của Đức Kitô (Hiến chế “Vui mừng và Hy vọng” số 22).

Mặt khác, Tân ước cũng cho thấy rằng chính đức Kitô Phục sinh đã ban Thánh Linh cho nhân loại (Cv 2,32; Ga 14,15.26; 16,7; 20,22). Chúng ta lãnh nhận được Thánh Linh của đức Kitô (xc Rm 8,9; Gl 4,6; Pl 1,19; Cv 16,7). Do đó không thể nào quan niệm tác động phổ quát của Thánh Linh tách rời khỏi đức Kitô. Thánh Linh đưa con người đến cùng đức Kitô, tác tạo con người nên giống hình ảnh của Thiên Chúa dựa theo khuôn mẫu của đức Kitô, và cho con người được thông dự vào điều kiện của đức Kitô làm Con Thiên Chúa.

Thánh Linh tác động trong thâm tâm cõi lòng của mỗi người, và nới rộng đến các định chế xã hội nữa, cách riêng là trong Hội thánh. Điều này đã được thánh Irênê phát biểu như sau: “Đâu có Thánh Linh của đức Kitô thì đấy có Hội thánh; ở đâu có Hội thánh, ở đấy có Thánh Linh và ân sủng” (Adversus haereses III,24,1). Do đó, Thánh Linh khi dẫn đưa con người đến cùng Thiên Chúa nhờ đức Kitô, thì cũng kết nạp họ vào một cộng đoàn Dân Thiên Chúa, tức là Hội thánh. Nhưng phải hiểu Hội thánh như thế nào? Đó là nguyên tắc thứ bốn mà văn kiện muốn trình bày.

IV. Hội thánh, nhiệm tích cứu độ

Thần học về các tôn giáo không thể nào tránh né vấn đề sứ mạng của Hội thánh trong lịch sử cứu rỗi. Ở đây chúng ta không xét đến câu hỏi: những ai không phải là phần tử của Giáo hội công giáo hữu hình có thể được cứu rỗi hay không? Câu trả lời chắc chắn là có thể được, như công đồng Vaticano II đã khẳng định. Vấn đề được nêu lên trong các cuộc đối thoại liên tôn là: phải hiểu thế nào về vị trí của Hội thánh trong chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa? Hội thánh có cần thiết hay không?

Câu hỏi về sự cần thiết của Hội thánh có thể hiểu theo hai nghĩa:

– Sự cần thiết phải gia nhập Hội thánh để được cứu rỗi.
– Sự cần thiết của Hội thánh để phụng sự kế hoạch cứu rỗi.

1/ Sự cần thiết gia nhập Hội thánh để được cứu rỗi

Trong quá khứ, có người đã giải thích câu nói “ngoài Hội thánh không thể nào được cứu rỗi” (Éxtra Ecclesiam nulla salus) theo một nghĩa chật hẹp, ra như muốn khóa cửa phần rỗi cho hết những người không thuộc về Giáo hội Công giáo. Trong lá thư đề ngày 8/8/1949 gửi cho đức Tổng giám mục Boston, Bộ Thánh vụ (tên cũ của Bộ Giáo lý đức tin) đã giải thích ý nghĩa của sự cần thiết phải gia nhập về Hội thánh. Cần phải phân biệt sự cần thiết phải gia nhập Hội thánh để được cứu rỗi (necessitas praecepti) và sự cần thiết của những phương tiện tất yếu (necessitas intrinseca) để được cứu rỗi. Những phương tiện tất yếu để được cứu rỗi là đức tin và bác ái (dựa theo thư gửi Do thái 11,6). Điều này không thể nào thiếu được. Còn việc gia nhập Hội thánh là điều không bó buộc trong hoàn cảnh không biết bất khả kháng: trong trường hợp này thì chỉ cần lòng ao ước ám tàng là đủ, và lòng ao ước đó đã được bao gồm trong ý định chân tình sẵn sàng thuận tuân theo ý Chúa.

Công đồng Vaticano II đã trả lại ý nghĩa nguyên tuyền cho câu nói “ngoài Hội thánh không thể được cứu rỗi”, nghĩa là nó chỉ áp dụng cho những ai đã trở thành phần tử của Giáo hội công giáo rồi, đã biết sự cần thiết của Hội thánh mà không bền đỗ ở lại trong Hội thánh. Sự cần thiết làm phần tử Hội thánh dựa trên sự cần thiết của đức tin và phép rửa (Hiến chế về Hội thánh, số 14). Tiếp theo đó, ở số 16, công đồng nói rằng các người ngoài Kitô giáo thì được quy hướng đến Dân Thiên Chúa. Dựa trên ý định của Thiên Chúa muốn cho hết mọi người được cứu rỗi và quy tụ họ thành một đoàn ngũ, công đồng muốn nói rằng tất cả mọi người được mời gọi vào Hội thánh. Ở đây cần phải hình dung Hội thánh như là Thân thể của đức Kitô, nghĩa là tất cả những ai được kết nạp vào mầu nhiệm Vượt qua của đức Kitô, theo kiểu nói của Hiến chế Vui mừng và Hy vọng số 22. Hội thánh và đức Kitô gắn liền với nhau. Hội thánh là một thực thể mầu nhiệm, một sự thông hiệp thiêng liêng bao gồm hết mọi người công chính từ ông Abel. Cũng nên nói thêm là trong Hiến chế về Hội thánh số 16, công đồng đã nói đến các người ngoài Kitô giáo không phải chỉ như là những cá thể riêng rẽ nhưng xét như là thành phần của các tôn giáo: Do thái giáo, Hồi giáo và các tôn giáo nhất thần, các tôn giáo khác.

2/ Sự cần thiết của Hội thánh để phụng sự kế hoạch cứu rỗi

Xưa nay, mỗi khi nói đến sự cần thiết của Hội thánh, thần học thường chỉ chú trọng tới khía cạnh cần phải gia nhập Hội thánh để được cứu rỗi. Gần đây, người ta nêu bật thêm khía cạnh thứ hai của sự cần thiết của Hội thánh, đó là: Thiên Chúa đã muốn dùng Hội thánh như nhiệm tích cứu rỗi. Thực vậy, trong kế hoạch cứu rỗi, Thiên Chúa đã muốn đặt Hội thánh như dấu hiệu và công cụ để thực hiện ơn cứu rỗi. Hội thánh chu toàn sứ mạng của mình qua chứng tá của việc rao giảng, thánh hóa và bác ái (martyria, leiturgia, diakonia).

a- Qua việc rao giảng, Hội thánh công bố cho nhân loại biết hồng ân cứu độ mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại qua đức Kitô, hồng ân mà họ đã hưởng tuy không biết. Hội thánh mang sứ mạng truyền giáo: sau khi đã nhận biết và đón nhận ơn cứu độ rồi, các tín hữu được mời gọi cộng tác trong việc xây dựng Nước Thiên Chúa, phát triển các tiềm năng nhân bản là hiểu biết chân lý và thương yêu tha nhân.

b- Qua việc cử hành phụng vụ, Hội thánh thay mặt cho nhân loại thực hiện chức vụ tư tế, để dâng lời chúc tụng tạ ơn Thiên Chúa, và đồng thời chuyển thông cho nhân loại công hiệu của ơn hòa giải mà đức Kitô đã hoàn tất trên thập giá.

c- Qua công tác từ thiện bác ái, Hội thánh làm chứng tá cho tình thương mà Thiên Chúa dành cho nhân loại, và chứng tá cho sự thành hình Vương quốc công lý, yêu thương và hòa bình của Ngài.

Trong việc phụng sự chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa, Hội thánh cũng có sứ mạng thu thập tất cả những gì thiện hảo đã được gieo vào tâm trí con người và trong các lễ nghi và văn hóa của các dân tộc, ngõ hầu thanh luyện, nâng cao và kiện toàn chúng (Hiến chế về Hội Thánh, số 17). Thực vậy, tác động của Thánh thần đã đi trước hoạt động truyền giáo của Hội thánh. Có thể nhìn nhận tác động ấy nơi tâm tình đạo giáo được gợi lên nơi các cá nhân hay các đoàn thể. Thánh Thần chuẩn bị, hướng dẫn họat động của Hội thánh, liên kết hết mọi người với mầu nhiệm Vượt qua của đức Kitô. Thánh Thần dun dủi Hội thánh đến loan báo Tin mừng trên mảnh đất của những tâm hồn đã được Ngài chuẩn bị. Vì thế mà Hội thánh cần biết quý trọng tiếp thu những gì chân thật và tốt lành mà Thánh thần đã gieo, nhờ vậy mà Hội thánh sẽ trở thành đích thực công giáo (catholica: toàn diện, phổ cập), bởi vì thu gom hết tất cả các tinh hoa của các dân tộc.

Để kết luận về vai trò của Hội thánh trong chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa, văn kiện trích dẫn đoạn văn của công đồng Vaticano II ( Hiến chế về Hội thánh số 4) viết như sau: “Dân thiên sai, mặc dù hiện thời chưa kết nạp hết mọi dân tộc và đôi khi còn xem ra như là đàn chiên bé nhỏ, nhưng đã trở thành cho toàn thể nhân loại mầm mống vững chắc của sự hợp nhất, của mối hy vọng và của ơn cứu độ. Được Chúa Kitô thiết lập như là một mối thông hiệp của sự sống, bác ái và chân lý, Hội thánh đã được chính Ngài kết nạp làm dụng cụ cứu chuộc cho hết mọi người và được sai đến với hết thế giới như ánh sáng soi trần gian và muối cho đất”.

PHẦN THỨ BA: VÀI HỆ LUẬN 

Trong phần thứ ba, văn kiện gợi lên vài giải đáp cho những vấn đề nêu lên trong phần thứ nhất, qua việc áp dụng các nguyên tắc nói trong phần thứ hai. Có 4 vấn đề chính sau đây:

Giá trị cứu độ của các tôn giáo;
Vấn đề mặc khải;
Vấn đề chân lý;

Đối thoại liên tôn và mầu nhiệm cứu độ.

I. Giá trị cứu độ của các tôn giáo 

Công đồng Vaticano II đã nhìn nhận rằng các tôn giáo chứa đựng những tia sáng của chân lý soi sáng hết mọi người (xc. Tuyên ngôn về các tôn giáo số 2), các hạt giống của Ngôi Lời (xc. Sắc lệnh về truyền giáo số 11). Tiếp tục đi sâu vào giáo huấn của công đồng, thông điệp Sứ vụ Đấng Cứu chuộc đã nói đến tác động phổ quát của Thánh Linh trong các nền văn hóa và các tôn giáo (số 28-29; 55-56). Dĩ nhiên không thể nào tách rời tác động phổ quát của Thánh Linh trong các TG ra khỏi tác động của Ngài trong Hội thánh, cũng như không thể nói tới tác động của Thánh Linh hoàn toàn biệt lập với đức Kitô. Cần phải coi tác động phổ quát của Thánh Linh một đàng như là chuẩn bị cho công cuộc truyền giáo của Hội thánh (số 21-27) và đàng khác như là giúp cho con người được thông dự vào công hiệu cứu chuộc của đức Kitô.

Chính nhờ sự hiện diện của Thánh Linh tác động trong các TG mà ta có thể nói đến giá trị cứu độ của các TG. Tuy nhiên sự khẳng định về giá trị cứu độ của các TG cần được bổ túc với hai nhận xét sau đây:

1/ Tác động phổ quát của Thánh Linh không phải chỉ giới hạn vào các TG mà còn bao hàm các nền văn hóa và lịch sử của các dân tộc.

2/ Không phải hết mọi yếu tố của các TG đều mang giá trị cứu độ, nhưng chỉ trong tầm mức mà các TG hướng con người đến Đấng Siêu việt (đi tìm Chân Thiện), và trong tầm mức mà các TG giúp cho con người thực hiện tình yêu thương bác ái. Dù sao, không thể xếp giá trị cứu độ của các TG ngang hàng với giá trị cứu độ của Hội thánh đức Kitô, nơi mà Thánh Linh tác động cách sung mãn.

II. Mặc khải 

Quan niệm mặc khải của thần học không hoàn toàn giống như quan niệm trong khoa lịch sử các TG. Lịch sử TG hiểu mặc khải như là việc Thiên Chúa xuất hiện tỏ mình. Hiểu theo nghĩa này, thì ta phải nhìn nhận rằng các TG khác cũng nhận được mặc khải của Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa tỏ mình ra qua các công trình tạo dựng (xc. Kn 13,5; Rm 1,19-20), qua tiếng nói của lương tâm (xc. Rm 2,14-15) và còn qua những cách thức khác nữa. Nhưng thần học thì hiểu việc mặc khải theo ý nghĩa sâu đậm hơn, đó là Thiên Chúa thông ban mình cho nhân loại. Sự thông ban sung mãn này diễn ra nơi đức Giêsu Kitô. đức Kitô là Lời của Thiên Chúa: Ngài thông ban cho chúng ta đời sống nội tại của Ba ngôi; đồng thời Ngài tỏ bày cho chúng ta tấm gương vâng phục ý Cha. Chứng tích của sự mặc khải của đức Kitô được lưu lại trong Hội thánh nhờ chứng tá sống động, và nhờ Kinh thánh được viết lên do linh ứng của Thánh Thần. Cần phải ghi nhận sự khác biệt này khi bàn về mặc khải trong các TG.

III. Chân lý 

Muốn cho cuộc đối thoại được chân tình, thái độ căn bản cần có là không bên nào khư khư coi mình đã nắm chắc chân lý. Liệu người kitô hữu có thể đối thoại với các tôn giáo khác một cách nghiêm chỉnh hay không, khi họ xác tín rằng đức Kitô là Đấng Trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa với loài người, là Đấng Cứu chuộc của toàn thể nhân loại? Phải chăng nếu muốn đối thoại nghiêm chỉnh thì cần phải khước từ đức tin của mình?

Không phải vậy! Những nguyên tắc căn bản nói ở trong phần thứ hai của văn kiện giúp cho người tín hữu có thể đối thoại nghiêm chỉnh, mà không rơi vào tư thế trịch thượng cũng chẳng phải khước từ niềm xác tín của mình (chẳng hạn khi nhìn nhận sự hiện diện của Thánh thần, của chân lý trong các TG).

Tiên vàn, nên biết rằng để cuộc đối thoại được hữu ích, mỗi bên cần phải chân thành bày tỏ quan điểm của mình. Đành rằng cuộc đối thoại không thể tiến hành được nếu một bên đã tự mãn coi mình đã nắm chắc chân lý; nhưng đối lại, cuộc đối thoại cũng sẽ trở thành vô ích nếu mỗi bên không có gì để trao đổi với nhau, hoặc nghĩ rằng con người sẽ không bao giờ tìm được chân lý.

Như vậy để cho cuộc đối thoại được hữu hiệu, cần có can đảm nhìn nhận những điểm đồng quy và những điểm khác biệt, như công đồng Vaticano II đã cho thấy ở Tuyên ngôn về các TG. Công đồng nhận thấy nhiều điểm tương đồng giữa các TG, chẳng hạn như nỗ lực tìm cách vượt qua các khắc khoải của tâm hồn khi đối diện với những vấn đề sinh tử (số 2); đồng thời công đồng cho thấy rằng mỗi TG trình bày giải pháp khác nhau: Phật giáo, Ấn giáo, Hồi giáo, v.v… Công đồng muốn đối thoại với các TG bởi vì nhìn nhận rằng tất cả nhân loại họp thành một gia đình, bắt nguồn từ một nguồn gốc chung. Công đồng nhìn nhận rằng các TG chứa đựng các yếu tố chân thực và thánh thiện, nhưng không ngần ngại tuyên bố rằng đức Kitô là Đường, Chân lý, Sự sống (số 2).

Do đó, trong cuộc đối thoại, không nên tránh né các sự khác biệt. Sau khi đã nhìn nhận sự khác biệt, đôi bên sẽ tìm hiểu nguồn gốc của sự khác biệt, lắm lần tùy thuộc vào cách thức diễn tả của nền văn hóa. Sự đối thoại muốn tiến đến chỗ gặp gỡ đồng quy, vượt lên trên những sự khác biệt. Dù sao, người kitô hữu cần ý thức về chân lý của đức tin của mình. Đây không phải là một thứ chân lý thuộc loại siêu hình. Chân lý của niềm tin Kitô giáo nằm ở chỗ Thiên Chúa đã thông ban cho nhân loại nơi đức Kitô. Nhờ đức Kitô, con người không những biết được kế hoạch của Thiên Chúa mà còn nhận được khả năng để tiến đến sự thông hiệp với Thiên Chúa. Chính nhờ đức Kitô mà chúng ta biết rõ phẩm giá của con người cũng như biết đánh giá tác động của Chân lý và Thánh Linh hiện diện nơi các TG khác.

IV. Đối thoại liên tôn và mầu nhiệm cứu độ 

Từ công đồng Vaticano II đến nay, Giáo hội công giáo đã dấn thân vào các cuộc đối thoại liên tôn. Những văn kiện của Tòa thánh đã cho thấy nhiều dạng thức của cuộc đối thoại: có khi là giữa các chuyên viên, có khi là giữa các tín đồ trong cuộc giao tiếp hằng ngày. Cuộc đối thoại liên tôn mang một sắc thái độc đáo, đó là diễn ra trong bầu khí đạo giáo, dưới sự hiện diện của Thiên Chúa, và bàn đến những đề tài liên quan đến Thiên Chúa và con người. Các Kitô hữu nên ghi nhận vài điểm sau đây trong khi đối thoại:

1/ Quan điểm về Thiên Chúa

Cần phải biết rõ người đối diện quan niệm thế nào về Thiên Chúa (Thượng đế, Đấng Siêu việt, Thực thể Tuyệt đối)? Những quan niệm này chịu ảnh hưởng rất nhiều của văn hóa, đến độ con người quen hình dung Thiên Chúa theo hình ảnh và tâm thức của mình. Thực thể đó có ảnh hưởng gì tới lịch sử nhân loại hay không?

2/ Quan điểm về con người

Các cuộc đối thoại liên tôn cho thấy rằng các TG khác biệt quan điểm không những về các thực thể siêu việt mà cả trong quan điểm về con người nữa. Cho dù có những dị biệt trong quan niệm về cơ cấu và định mạng con người giữa Kitô giáo và các TG khác, nhưng khi đi vào cuộc đối thoại, người Kitô hữu cần phải nhìn tha nhân như là hình ảnh của Thiên Chúa. Niềm thâm tín này mang theo nhiều hệ luận thực tiễn: ta phải tỏ lòng kính trọng nhân vị của người đối diện, nhìn nhận sự hiện diện của Thiên Chúa ở nơi họ, và đang mời gọi họ đến gặp gỡ Ngài. Nói khác đi, người kitô hữu bước vào cuộc đối thoại trong tâm tình cầu nguyện, ngoan ngoãn để cho Thánh Thần dẫn dắt.

Mặt khác, người kitô hữu cũng ở trong tư thế bình đẳng với các tín đồ của các tôn giáo khác khi đương đầu với những vấn đề nhân sinh: gia đình, giáo dục, kinh tế, v.v… Đó là những điểm gặp gỡ và hợp tác với nhau, cũng như là điểm để nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa. Nhất là con người, bất luận thuộc tôn giáo hay ý thức hệ nào đi nữa, sơm muộn đều phải đương đầu với cái chết. Các TG tìm cách trả lời cho những khắc khỏai của con người khi đối diện với cái chết, những băn khoăn liên hệ tới định mạng của mình. Mặc dù người kitô hữu đã học biết được đạo lý đức tin về ý nghĩa sự chết, nhưng họ cũng không tránh khỏi những thử thách khi phải đối diện với cái chết trên thực tế, chẳng hạn cái chết của người vô tội, cái chết oan ức của người bị áp bức. Người kitô hữu cũng cảm nghiệm cảnh cô đơn lẻ loi của đức Kitô trên thập giá. Tuy nhiên, chính đây là chìa khóa mà người kitô hữu mang đến cho các cuộc đối thoại liên tôn, đó là niềm tin vào sự phục sinh sau cái chết trên thập giá. Đức Kitô đã thắng cái chết bằng cái chết của mình.

Người Kitô hữu đi vào cuộc đối thoại liên tôn với một tâm tình yêu thương giống như tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Theo gương của đức Kitô, người tín hữu sống hòa mình giữa đồng loại, bày tỏ cho họ thấy tình thương của Thiên Chúa qua các việc làm cụ thể. Người tín hữu học hỏi sự khiêm tốn dịu hiền của đức Kitô, để cho quyền năng của Thánh Thần dìu dắt. Là phần tử của Hội thánh, các kitô hữu chỉ đóng vai trò dấu chỉ và dụng cụ: chính Thiên Chúa mới là nguyên ủy và chủ động của ơn cứu độ.

 Bình Hòa
Thời sự Thần học, số 13