Tôn giáo qua nhãn quan tâm lý học

TÔN GIÁO QUA NHÃN QUAN TÂM LÝ HỌC (I)

Freud & Jung

Fr. Joseph Tân Nguyễn, ofm

Dưới nhãn quan tâm lý học, chúng ta sẽ nghiên cứu hai cách tiếp cận về tôn giáo, phân tâm học của Freud và Jung trong bài này, và chủ thuyết thực dụng của James và Stark trong bài kế tiếp. Tuy Freud và Jung đều dùng phân tâm học, nhưng thái độ của họ về tôn giáo thì khác nhau. Freud xem tôn giáo như là một sự đánh lừa vốn để xoa dịu và giúp con người không phải đối diện với sự bất hòa nhận thức, như bệnh nhân tâm thần dùng ảo giác để tránh né các tình huống oái ăm trong cuộc sống. Trái lại, Jung cho rằng tôn giáo thể hiện một tiềm năng siêu việt không chỉ cho cá nhân, mà hơn hết, là nguồn ý thức tập thể của con người qua các hình mẫu tâm linh (archetypes). Cả hai quan điểm này cho chúng ta cái nhìn phê phán và phổ quát hơn về tôn giáo trong bối cảnh mục vụ.

SIGMUND FREUD PHÊ BÌNH TÔN GIÁO

Sigmund Freud (1856 – 1939) sinh ra tại một làng Moravian ở Freiberg. Freud khởi đầu theo đuổi ngành thần kinh học và sinh lý học, nhưng dần dần bị thu hút bởi tính hữu hiệu của những can thiệp tâm lý vào việc trị liệu bệnh tâm thần. Khi nhận ra mình có khả năng giúp các bệnh nhân giải tỏa bằng cách trò chuyện với họ, Freud nghiên cứu phương pháp phân tâm và được nhiều người công nhận là cha đẻ của ngành trị liệu tâm lý. Phong trào Nazi nổi lên làm gián đoạn sự nghiệp và danh tiếng của Freud ở Vienna vì gốc Do Thái của gia đình ông và mặc dù ông là người vô thần. Sau một thời gian do dự, cuối cùng Freud phải đút lót lính Nazi để được di tản qua London. Ông mất tại đó sau 15 tháng vì bệnh ung thư

Quan điểm phân tâm học của Freud dựa trên mô hình của sự rối loạn tâm thần. Ông dùng ví dụ về cách chữa trị một phụ nữ, vì quá khiếp sợ con nhện mà không dám vào căn phòng của mình. Mẹ cô thường hay tự ý vào phòng cô mà không tôn trọng sự riêng tư của con mình. Bác sĩ nhận thấy có mối liên hệ giữa mẹ cô gái và nỗi khiếp sợ của cô với con nhện. Điểm khai mở là trong khi tư vấn tâm lý, cô ta thốt lên: “Mẹ tôi cũng như con nhện vậy!” Cô bắt đầu nhận ra rằng, mình bị người mẹ bao vây giống như con ruồi dính vào mạng nhện mà không lối thoát. Vì không được phép thể hiện sự tức giận với mẹ mình, nên cô đã chuyển tải sự tức giận đó qua con nhện. Điều này tạo nên một cái “van” an toàn cho cảm xúc tức giận của cô. Một khi cô ý thức được mối liên hệ này, cô đã vượt qua được nỗi khiếp sợ về con nhện và bắt đầu đối diện với sự tức giận của mình.

Trong phân tâm học, tình trạng rối loạn thần kinh là do bệnh nhân gây ra bởi việc chuyển hướng năng lực tiêu cực của mình sang một đối tượng nào đó; tình trạng rối loạn này có thể được xóa tan, một khi ta khám phá ra nguồn gốc thật sự của nó. Freud cho rằng vô thức là nơi mà những ý tưởng và cảm xúc không được tiếp nhận, vì nó đang bị đè nén và phải tìm cách giải tỏa các năng lực này một cách an toàn. Phân tâm học cần nhận diện mối liên hệ giữa đối tượng của sự chuyển hướng với tình huống thực tế của cuộc sống. Tuy nhiên, cách Freud kết nối xung lực của trẻ con với sự ham muốn tình dục hay ganh tỵ đối với cha mẹ đã gây chấn động cho các đồng nghiệp của ông.

Tôn Giáo và Ảo Giác

Freud xem tôn giáo cũng là cách chuyển hướng những nỗi lo âu của con người qua các biểu tượng vô thực và tha hóa, vốn là một sự đánh lừa mà có thể ngăn cản được nếu con người đối diện trực tiếp với các vấn nạn và bất mãn trong cuộc sống. Tôn giáo là sự rối loạn thần kinh vì các nghi thức tôn giáo phản ánh hành vi mang tính nghi thức của bệnh nhân tâm thần. Giống như một hội chứng ảo giác thần kinh (neurosis), tôn giáo được dùng như cái “van” an toàn để giải tỏa sự căng thẳng tâm thần, nhưng lại không thể giải quyết tận căn những vấn đề thực tế mà con người phải đối diện trong cuộc sống. Một khi bệnh nhân hồi phục và tự mình đi đứng được thì cặp nạng gỗ không cần thiết nữa. Cũng thế, một khi con người nhận diện được đối tượng của rối loạn thần kinh, thì con người có thể sống lành mạnh hơn mà chẳng cần đến tôn giáo.

Freud trình bày quan điểm về tôn giáo của ông trong hai tác phẩm cổ điển. Tác phẩm Vật Linh Và Điều Cấm Kỵ (Totem und Tabu, 1913) mô tả sự tương đồng giữa huyền thoại của thổ dân và bệnh rối loạn thần kinh. Freud liên kết nguồn gốc tôn giáo độc thần với sự tích các người con trai đồng tình với nhau giết cha mình. Do mặc cảm tội lỗi về việc ám sát người cha, họ sợ hãi và tự hứa sẽ không bao giờ tái phạm. Việc ám sát này đưa đến thảm họa loạn luân, vì động lực của việc ám sát chính là lòng ham muốn chiếm đoạt người mẹ. Nhưng vì người cha đã bị sát hại và các người con trai không thể bày tỏ sự hối hận và đền bù về tội lỗi của mình, nên chúng đã tôn thờ và nâng ông lên như một vị Chúa Cha. Cho dù đây chỉ là một trình thuật tưởng tượng và không có chứng cứ lịch sử, nhưng nó thường được dùng như ẩn dụ để minh họa cho tình huống tha hóa trong phân tâm học. Nguyên thủy, sự kiện giết hại người cha trở thành biểu tượng của rối loạn tâm thần, đã được xuất hiện qua nhiều hình thức tương tự trong các trình thuật tôn giáo và văn hóa nơi các xã hội khác.

Tác phẩm Tương Lai Của Một Ảo Giác (Die Zukunft einer Illusion, 1927) trình bày ba cách giải thích mà khái niệm tôn giáo được truyền đạt: Đầu tiên là do tổ tiên của loài người tin vào các truyện thần thoại; rồi sau đó, các chứng cớ về chúng được tích lũy; và cuối cùng, thắc mắc hay hoài nghi về tính chân thực của chúng đều bị cấm đoán. Theo ngôn ngữ tâm lý học, niềm tin tôn giáo là một hiện tượng bị đánh lừa, vốn hoàn thành những ảo giác cổ xưa, quyền lực và những điều thúc bách nhất của nhân loại. Sự đánh lừa thường do thiếu khả năng nhận thức về thực tại, nhưng sự đánh lừa qua ảo giác là những gì mà con người muốn tin vào một thực tại khả thi. Ảo giác thì không liên quan gì đến thực tại bên ngoài, nhưng ảo giác dựa trên lý lẽ tại sao chúng ta tin và ước muốn điều mà chúng ta mong được thỏa mãn. Người ta tin vào chúng không phải vì chúng có thật, nhưng vì họ muốn chúng có thật.

Tương tự như Marx, Freud xem tôn giáo vừa là hàng rào giúp con người làm chủ các xung lực xấu xa của mình, vừa là sự an ủi bồi đắp cho những thiếu thốn và bất mãn của con người. Cuộc sống đòi hỏi chúng ta phải đè nén bản năng và ngăn cản sự hỗn loạn xã hội. Như là tiếng nói của đại ngã (super ego), tôn giáo biến đổi những cấm đoán từ xã hội bên ngoài thành những răn đe nội tâm. Mặt khác, nếu không có xã hội và tôn giáo, thì con người sẽ bị bỏ mặc trong thế giới tự nhiên, bất lực và tìm mọi cách làm cho thiên nhiên trở nên thân thiện với ước muốn của chính mình. Từ đó, con người phải tạo nên hình ảnh một nhân vật từ bi, rồi nuôi dưỡng và phóng chiếu hình ảnh đó ra ngoài thế giới như là một ảo giác. Trong khi Feuerbach xem Thiên Chúa là sự phóng chiếu những ước muốn thiện hảo của con người; thì đối với Freud, Thiên Chúa là một hầm chứa những nỗi lo sợ và ảo vọng của sự bất xứng mà con người không dám nhận ra từ mình. Qua cách phóng chiếu sự bất xứng ra ngoài, con người có thể đối phó với những truân chuyên trong định mệnh của cuộc sống.

Giá Trị của Tôn Giáo

Vì tôn giáo là sự rối loạn tâm thần, nên giá trị của nó không thể được chấp nhận như là hiển nhiên. Chứng cớ và giáo huấn của tôn giáo không phải là những chọn lựa sáng suốt và thuyết phục. Tôn giáo có thể giải tỏa tạm thời những áp bức gây nên do bị đè nén tâm linh (cầu nguyện, thiền, tĩnh tâm, v.v.), nhưng tốt hơn hết, chúng ta cần đối diện với những bức xúc này một cách trực tiếp qua tâm lý trị liệu. Trong khi sự đè nén mang tính ấu trĩ và cổ hủ thuộc phạm vi cá nhân được thể hiện qua hiện tượng rối loạn tâm thần của trẻ em, thì Freud cho rằng tôn giáo biểu thị các nhu cầu này ở mức độ cộng đồng, do đó cần hóa giải chúng với sự oái ăm của định mệnh và bù đắp những mất mát do bị xã hội chiếm đoạt. Chúng ta cần đem vấn đề bị dồn nén ở vô thức vào ý thức để chúng được đối diện và giải quyết theo sự hiểu biết của người lớn. Nếu tôn giáo không được loại trừ, thì con người sẽ luôn mãi sống trong sự ấu trĩ, và sẽ không bao giờ đối diện được với thực tại chân chính.

Phương pháp lý luận loại suy của Freud mang tính chú giải. Thay vi đưa ra một giả thuyết về nguyên nhân của sự kiện rồi chứng minh là nó chính xác như trong thế giới, Freud chỉ đề nghị chúng ta nhìn sự kiện qua một nhãn quan nào đó. Quan điểm phân tâm học của Freud đã tạo khung cho suy tư về tôn giáo, nhưng không có nghĩa rằng những khẳng định của nó là đúng. Nhiều học giả cho rằng, quan điểm tôn giáo của Freud thiếu khoa học vì không đưa ra chứng cớ nghiên cứu nào, mà chỉ dựa vào kinh nghiệm phân tích các bệnh nhân. Đa số các chuyên viên tâm lý trị liệu không còn chấp nhận chủ nghĩa vô thần mà Freud đòi hỏi trong phân tâm học nữa. Nhưng dù sao Freud cũng đã giúp chúng ta nhận ra giống như cách trị liệu bệnh tâm thần, tâm linh con người cũng có thể được giải thoát  khỏi những yếu tố thiếu lành mạnh của tôn giáo. Phương pháp trị liệu phân tâm có thể biến đổi một tôn giáo bệnh hoạn thành một tôn giáo lành mạnh hơn.

CARL JUNG TÔN DƯƠNG TÔN GIÁO

Carl Gustav Jung (1875 – 1961) sinh ra tại Kesswil, Switzerland. Khi còn trẻ, Jung có tính tình rất hướng nội và thích sống cô lập. Ông cho rằng mình sở hữu hai cá tính khác biệt mà ông gọi là Nhân vật 1 và Nhân vật 2. Ông thích nghiên cứu triết học và các hoạt động tâm linh bất thường. Tại Basel, Jung theo học ngành y khoa với chuyên môn về tâm lý trị liệu; và sau đó, làm việc tại một trung tâm y tế ở Zürich. Năm 1903, Jung kết hôn với Emma Rauschenbach, là người tiếp tục nghiên cứu với ông mãi cho đến khi ông qua đời.

Jung hợp tác với Sigmund Freud trong các năm 1906 – 1913. Lúc đầu, quan điểm của họ bổ túc cho nhau nhưng vẫn có những khác biệt về bản chất của vô thức, về quan niệm tính dục như là động lực cho mọi hành vi, và về vai trò huyền bí của tôn giáo. Jung cũng cảm thấy không thoải mái với khát vọng của Freud muốn biến ông thành một bản sao trung thành của Freud. Sau khi chia tay với Freud, Jung trải qua một “cơn bệnh sáng tạo”. Ông có giấc mơ về Âu Châu đang bị chảy máu, và Thế Chiến I bùng nổ. Từ đó, ông từ bỏ nghành y khoa, dành thời giờ trọn vẹn cho việc đọc và viết sách. Sau khi Thế Chiến I chấm dứt, Jung du lịch khắp nơi trên thế giới, và có ấn tượng nhiều nhất về Ấn Độ. Ông say mê đọc các sách về huyền thoại, và tìm hiểu tiến trình các biểu tượng được sản xuất như thế nào từ tâm linh con người.

Jung khởi đầu như một trong những đồ đệ sáng giá nhất của Freud. Thế nhưng, một khi Jung suy tư độc lập về tâm lý học và các bệnh liên quan, ông xem tôn giáo như nguồn năng lực cho sự chữa lành và quân bình tâm linh vốn kết nối con người với nhau. Jung xem tôn giáo là một yếu tố cần thiết giúp con người tiếp cận với trực giác tập thể và vĩ mô của cá nhân chúng ta. Thực tại này có thể được gọi bằng nhiều tên khác nhau; thế nhưng, nó đại diện cho một mạng lưới đồng điệu hay một ý thức đại đồng, vốn đã được ghi tạc vào tâm thức của cá nhân. Nội dung của nó là những hình mẫu, tức là những biểu tượng phổ quát giúp con người tổ chức và tạo ý nghĩa cho sự tồn tại của con người. Kết hợp với suy tư biện luận và duy lý, các hình mẫu và biểu tượng này cho phép con người tiếp cận thế giới trong sự quân bình và đầy ý nghĩa.

Tôn Giáo và Hình Mẫu của Vô Thức

Jung tự mô tả mình là nhà “hiện tượng luận” tâm linh. Kinh nghiệm là nền tảng, cho dù nó có ý vị là đại diện cho chính nó hay không. Là một tâm lý gia lâm sàng và chuyên viên trị liệu, Jung lưu tâm nhiều về hiệu quả và chức năng sáng tạo của tâm linh hơn là thực tại khách quan bên ngoài. Trong khi Freud nhìn vô thức như là “hầm chứa rác” gồm những nội dung bị đè nén, thì Jung nhìn vô thức một cách trung lập gồm những gì mà chủ thể không ý thức đến.

Jung tin rằng vô thức có hai phần: cá nhân và tập thể. Vô thức cá nhân là những xung lực tích tụ qua trải nghiệm cuộc sống của cá nhân. Vô thức tập thể là gia sản mà cá nhân thừa hưởng được như thành phần của nhân loại. Là kho dữ liệu tâm linh quan trọng, vô thức tập thể tạo nên cấu trúc của ý thức và kết nối cách huyền bí mọi cá nhân con người lại với nhau qua các hình mẫu (archetypes) của nó. Tuy chúng là thực tại tâm linh, những ý thức của chúng có thể được kiểm chứng cách thực nghiệm qua động lực cá nhân và tập thể của con người. Các hình mẫu được tiếp cận qua giấc mơ, nhưng bản chất của chúng là phổ quát và được thấy qua sự tái diễn của chúng nơi các huyền thoại và biểu tượng văn hóa trên thế giới (như hiện tượng “có hai mẹ” hay “có hai bản tính”).

Đối với Jung, các hình mẫu trong vô thức là những bản năng, không cần sự hỗ trợ của lý trí, nhưng lại thể hiện các nhu cầu căn bản và mãnh liệt của con người. Con người tiền sử tiếp cận các nhu cầu này qua giấc mơ và những phương pháp huyền bí hay loại suy. Thế nhưng, con người hiện đại đã tạo nên khủng hoảng cho chính mình khi loại bỏ giấc mơ, hay cho rằng nhu cầu căn bản và mãnh liệt của con người chỉ là vết thương tâm linh. Jung không xem tôn giáo như kiểu thuộc về giai đoạn ấu thơ của nhân loại, nhưng là nhu cầu gắn bó lâu dài vào các hình mẫu mà con người không bao giờ kết thúc được. Vô thức là nguồn sáng tạo và là công cụ hỗ trợ cho quan điểm của Jung về tôn giáo. Trong khi Freud xem bệnh hoang tưởng có thể chữa được qua cách mang nội dung của vô thức vào trong ý thức; còn Jung lại cho rằng khi một hình thức tôn giáo không còn ý nghĩa nữa, thì chúng ta cần đầu tư năng lực của vô thức vào các hình thức khác hữu hiệu và phù hợp hơn. Thay vì cắt bỏ hay loại trừ các hình mẫu của vô thức, con người có thể lắng nghe tiếng gọi của vô thức và trở nên sáng tạo hơn trong cách áp dụng hình mẫu vào các tình huống bế tắc của tôn giáo.

Jung dùng ví dụ về khái niệm “Ba Ngôi” để minh họa mối tương quan giữa tâm lý học và tôn giáo học. Trong triết học Platô, hình mẫu tam giác được thể hiện qua bộ ba lý trí-tinh thần-dục vọngvua-lính-thương gia, hay bản chất vàng-bạc-đồng. Thế nhưng, hình mẫu tam giác thì không tương xứng cho sự Thánh Thiêng như trong các thần thoại cổ xưa, vốn luôn được đại diện bằng một vòng tròn chia thành bốn hình vuông. Do đó, Jung đề nghị rằng, ngoài ba hình vuông đại diện cho Ba Ngôi, thì hình vuông thứ tư có thể được lấp đầy bằng các hình mẫu Đức Trinh Nữ hoặc Satan. Trong khi Tin Lành thường cảnh tỉnh con người về tội lỗi qua biểu tượng “Satan”, thì Công Giáo nhấn mạnh về sự bảo bọc và lòng từ bi của Thiên Chúa qua biểu tượng “Đức Mẹ”. Lý tính tân thời, vì quá lệ thuộc vào tính nhất quán của logic, xem sự đối lập như điều cần phải loại trừ; vì thế, lý tính tân thời không thể kết hợp các biểu tượng đối nghịch này lại với nhau thành một bức tranh hoàn hảo được.

Jung lưu tâm về ảnh hưởng của tôn giáo lên trạng thái tâm linh con người. Jung giải thích các biểu tượng tôn giáo (tạo dựng, nhập thể, cứu rỗi, thập giá, cánh chung, v.v.) như là hình mẫu chứ không phải là thực tại tự thân. Là di sản của ý thức tập thể, biểu tượng tôn giáo có thể làm cho cá nhân tê liệt nếu cá nhân quá đồng nhất với một hình mẫu nào đó, nhưng cũng có thể cung cấp năng lực lành mạnh cho đời sống. Tôn giáo có khía cạnh mãnh liệt hay bóng tối của nó, nhưng nếu cá nhân biết cách hội nhập và thích ứng với các năng lực này thì chúng sẽ trở nên những tiềm năng sáng tạo. Tuy nhiên, con người sẽ thất bại nếu giữ thái độ duy lý hay chối bỏ bóng tối như là sự nghịch lý, vì như thế sẽ cắt bỏ sự vẹn toàn của tâm linh con người. Hiện tượng luận hình mẫu của Jung thì khác với lối tiếp cận biểu tượng tôn giáo của thần học truyền thống. Nhưng nó đã mở ra một lối suy tư phổ quát hơn, có khả năng vượt trên phạm vi ý thức và bao gồm cả về sự tái diễn của hình mẫu qua giấc mộng và các chuyện thần thoại. Joseph Cambell đã phổ biến khái niệm này qua nhiều sáng tác và cung cấp nguồn tri liệu sáng tạo cho bộ phim Star Wars của George Lucas.

Kết

Nói chung, cả Freud và Jung đều cho thấy mối tương quan năng động giữa vô thức và tôn giáo. Trong lúc Freud xem tôn giáo như sự đánh lừa hay ảo giác, thì Jung nhận ra tiềm năng siêu việt của vô thức trong tôn giáo. Tôn giáo vừa đại diện cho sự ràng buộc của siêu ngã, vừa là nguồn năng lực giải phóng cho con người. Tôn giáo dễ bị lạm dụng nhưng cũng là nguồn tư liệu hữu hiệu cho sự chữa lành. Là hữu thể tâm linh, con người bị rung động bởi tôn giáo, vì tôn giáo là một hiện tượng bí ẩn, lôi cuốn và khiếp sợ đối với con người. Vì thế, mọi nỗ lực lý giải ảnh hưởng của tôn giáo mà loại trừ chiều sâu của vô thức thì sẽ là khiếm khuyết. Lối tiếp cận tôn giáo của Freud và Jung có thể cung cấp cho chúng ta một cái nhìn bao quát và phê phán hơn trong phạm vi linh hướng hay tư vấn mục vụ nếu chúng ta biết cách kết nối cả hai lãnh vực ý thức và vô thức với nhau.

Tài liệu tham khảo

Carl Jung. Psychology and Religion (The Terry Lectures). Yale University Press, 1977.

Sigmund Freud. The Future of an Illusion (Die Zukunft einer Illusion, 1927). The Standard Edition, 1989.

Charles B. Jones. Introduction to the Study of Religion. The Teaching Company, 2014.

Joseph Tân Nguyễn, ofm. Tôn Giáo: La Bàn Thiêng Liêng cho con người. NXB Tôn Giáo, 2023.

 

TÔN GIÁO QUA NHÃN QUAN TÂM LÝ HỌC (II)

JAMES & STARK

Fr. Joseph Tân Nguyễn, OFM

Sau khi sơ lược qua mối tương quan giữa tôn giáo và vô thức của Freud và Jung; trong bài này, chúng ta sẽ tìm hiểu mối tương quan giữa niềm tin tôn giáo và ý thức (ý chí, chọn lựa) của con người. William James, là một nhà tâm lý học và đồng sáng lập triết thuyết thực dụng, cho rằng niềm tin tôn giáo xuất phát từ ý chí muốn tin, vì không ai có thể chờ đợi cho đến khi tất cả mọi sự phải hiện diện trước khi đưa ra phán đoán. Do đó, niềm tin tôn giáo tuy không nhất thiết phải hợp lý, nhưng là thực dụng trong cách con người đối diện với những truân chuyên trong cuộc sống. Mặt khác, Rodney Stark xem niềm tin tôn giáo như là hậu quả của một sự tính toán và cân nhắc hợp lý, để con người có thể thụ hưởng giá trị của những cái mà chúng ta khao khát được sở hữu. Cả hai quan điểm thực dụng và thực nghiệm này cho thấy tôn giáo không chỉ là một hiện tượng xã hội khách quan mà còn là hiệu quả hợp lý của ý thức và động lực tâm lý nữa.

WILLIAM JAMES (1842 – 1910): TRẢI NGHIỆM TÔN GIÁO

Đóng góp của William James vào nền tri thức của Hoa Kỳ thì rất rộng rãi bao gồm nhiều lĩnh vực, nhưng chúng ta chỉ giới hạn vào cách ông dùng tâm lý học và triết học để hình thành một học thuyết về tôn giáo. James sáng lập trường phái Thực Dụng, vốn cho rằng chân lý trừu tượng thì không đáng để nghiên cứu, và muốn chú tâm đến cách niềm tin và thái độ gây nên tác động trên thế giới. Đối với James, niềm tin tôn giáo không phải là kết luận hợp lý từ những tranh luận xuyên suốt, nhưng là điều thuyết phục chúng ta hành động và được mang vào hiện hữu bằng sức mạnh của ý chí.

James được sinh ra trong một gia đình bề thế ở vùng New England. Anh ruột của ông là một nhà văn trứ danh, Henry James. Trong thời gian ở Harvard, James tham gia các cuộc thám hiểm trên sông Amazon ở Nam Mỹ. Khởi đầu sự nghiệp, James làm giáo sư về Cơ thể học nhưng sau đó chuyển qua dạy Tâm lý học. Cùng với C.S. Pierce, James sáng lập trường phái triết học Thực Dụng. Chủ thuyết này xem nhẹ giá trị nội tại của ý tưởng, nhưng lại nhấn mạnh đến hiệu quả của ý tưởng trong việc tạo nên hành vi. Đối với James, tôn giáo không phải là tập hợp những định đề chân lý buộc phải chấp nhận, nhưng là một hành vi năng động do sự chọn lựa thực sự và ý chí muốn tin của con người.

Sau thế kỷ XVIII, triết học Tây Phương bắt đầu hoài nghi về tính hiệu lực của lý thuyết thuần túy. Gotthold Lessing (1729-1781) dùng dụ ngôn ba người con cùng muốn dành quyền thừa hưởng chiếc nhẫn người cha để lại để minh họa sự tranh giành giữa Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo về tính đích tôn chính thống của mình. Nhưng chiếc nhẫn thần kỳ này chỉ vừa ngón tay của người con nào có cuộc sống luân lý và đạo đức xứng đáng khi họ thử vào. Kant đề nghị phương án “lý tính thực hành” vốn có thể lý giải các nghịch lý của lý trí và niềm tin tôn giáo. Trong toán học, hình học không gian thử thách hình học mặt phẳng cổ điển của Euclid vốn đã thống trị tri thức con người hơn hai nguyên niên, với mục đích giúp cho nghiên cứu khoa học phù hợp hơn với chuyễn động trong thế giới thực tế. Triết học Thực Dụng cho rằng ý tưởng có ý nghĩa, khi và chỉ khi chúng mang lại hiệu quả trong cuộc sống. Một ý tưởng thuần túy tuy thú vị, nhưng nếu không tạo nên hiệu quả thì không có tầm quan trọng gì cả. Hiệu quả của ý tưởng nằm trong khả năng biến đổi cảm xúc và thôi thúc cá nhân hành động. Tri thức là kết quả được tích lũy từ của kinh nghiệm thành công và thất bại trong “dòng chảy liên tục của ý thức” mà con người đã trải nghiệm.

Thuyết thực dụng về tôn giáo 

Niềm tin tôn giáo không chỉ dựa trên lý trí để vươn lên hầu chấp nhận một định đề được cho là đúng, nhưng còn là sự thủ đắc của một niềm tin đối với những ý định và chủ động để dẫn đưa đến hành động. Hành vi của ý chí này bao gồm các yếu tố bên ngoài lý trí, do đó chúng ta cần phải chú tâm đến khía cạnh cảm xúc của niềm tin. Có những sự chọn lựa bên ngoài phạm vi lý trí thuần túy thúc đẩy con người chấp nhận những chọn lựa gần như là phi lý. Điều này giúp chúng ta hiểu tại sao một người nhận thấy niềm tin này thật lôi cuốn, trong khi người khác lại vô cảm về nó. Do đó, không phải lý trí, mà tâm lý mới là yếu tố nền tảng trong việc nghiên cứu niềm tin tôn giáo. Có những vấn nạn quan trọng về tôn giáo mà tự nó không thể giải quyết được bằng lý trí, nhưng phải dựa vào ý chí chọn lựa và khía cạnh cảm xúc của con người.

Lý tính không bao giờ là nguyên nhân tối hậu của bất cứ niềm tin nào cả, vì hiếm khi chúng ta có mọi chứng cớ để quyết định. Giới hạn về thông tin có nghĩa là niềm tin không hoàn toàn dựa trên nền tảng của lý trí. Không ai có thể nán lại niềm tin của mình cho đến khi có đầy đủ mọi chứng cớ. Một khi chúng ta bước vào cuộc sống, chúng ta cần phải hành động, và hành động của chúng ta đều phải dựa trên nền tảng của niềm tin nào đó. Tình trạng ‘mãi hoài nghi vì sợ bị đánh lừa’ sẽ đánh mất cơ hội tốt. Đây là thực tại không thể tránh được trong cuộc sống; mọi người đều phải hành động dựa trên nền tảng của niềm tin của họ.  

James thẳng thắng loại bỏ những nghiên cứu về chân lý trừu tượng. Ông nhấn mạnh rằng, con người hành động theo niềm tin căn bản; và một khi hành động đó mang lại hiệu quả thích đáng cho cuộc sống, thì nó được cũng cố và trở thành chân lý. Do đó, chân lý là cái xảy ra trong khi con người thử nghiệm ý chí muốn tin của mình trong thế giới. Do đó, chỉ có tôn giáo xứng đáng với tên gọi của nó là tôn giáo đòi hỏi chúng ta phải thật sự chọn lựa, quyết định và dấn thân. 

Các loại trải nghiệm về tôn giáo

Trong tác phẩm cổ điển Các Loại Trải Nghiệm Tôn Giáo (The Varieties of Religious Experience, 1902) James liệt kê và phân loại nhiều trải nghiệm tôn giáo theo phạm trù lành mạnh hay bệnh hoạn, dựa trên cá tính và hành vi mà chúng cổ võ. James giới hạn nghiên cứu tôn giáo học trong phạm vi trải nghiệm cá nhân, và loại bỏ mọi cứu xét về các hệ thống thần học hay các tổ chức tôn giáo. Ông tra cứu các nguồn tri liệu như: nhật ký, lý lịch, tự truyện và các tác phẩm cá biệt, vốn có thể giúp nhận diện những dấu vết nội tâm của cuộc sống thánh thiện. Nghiên cứu của ông mang tính tâm lý học vì nó không chú tâm đến tính xác thực, nhưng chú tâm đến chân lý đã được nhận thức qua trải nghiệm cá nhân và hiệu quả mà chúng mang lại. Khi nhấn mạnh vào trải nghiệm và hiệu quả của niềm tin tôn giáo, James gạt bỏ các vấn đề về nguồn gốc tôn giáo. Ông cho rằng các giả thuyết về nguốn gốc tôn giáo đa phần chỉ là suy tưởng và thiếu kiên định. Vấn đề nguồn gốc tôn giáo cần phải được tách biệt ra khỏi vấn đề về giá trị tôn giáo.

Trong khi nghiên cứu, James chọn dùng những loại trải nghiệm và hành vi tôn giáo có khuynh hướng kích động và thôi thúc đối với cá nhân. Những đồn đãi về trải nghiệm tôn giáo của đám đông thì không đủ mạnh để soi sáng hiện tượng này. Trái lại, các trải nghiệm mang tính cá nhân, mãnh liệt và hiếm có sẽ hé mở cho chúng ta một cách khác biệt để nhận diện các hiện tượng đặt thù so với kinh nghiệm tôn giáo thông thường. Các nhân vật lập dị hay cuồng tín thường được xem như là trường hợp điển hình và chân chính để nghiên cứu về niềm tin tôn giáo. Trải nghiệm tôn giáo mang tính cực đoan sẽ làm cho chủ thể bị cuốn hút sâu vào đó hơn, vì thế mà nó có thể mang lại những trải nghiệm sâu sắc hơn nhiều cho chủ thể.

Từ những chứng từ của các trải nghiệm tôn giáo mang tính cá nhân, James đúc kết được ba phạm trù về trải nghiệm tôn giáo. Loại thứ nhất là trải nghiệm tôn giáo lành mạnh, vốn làm cho chủ thể có cái nhìn lạc quan và đủ mạnh để đối phó với mọi khó khăn trong cuộc sống. Loại thứ hai là những tâm hồn bệnh hoạn đưa đến suy tư rằng, có điều gì sai lầm bên trong họ vốn thôi thúc họ tìm cách giải quyết qua tôn giáo. Loại thứ ba là những kẻ tâm linh đang bị phân tán, một trải nghiệm mà qua đó, cá nhân nhận thức mình cần có sự hoán cải, trở nên hoàn thiện và liêm chính, vốn chỉ có được qua thực hành tôn giáo. 

James tin rằng sự đa dạng tôn giáo là điều cần thiết và không thể tránh được, vì có nhiều loại cá tính và nhu cầu tâm linh khác nhau của con người. Ông chống lại ý kiến lập nên một “khoa học về tôn giáo”; bởi vì như thế, sẽ đánh mất trải nghiệm chân thật về đời sống tôn giáo, vốn chỉ có thể hiểu được qua cách lắng nghe trải nghiệm của những cá nhân đạo đức. Tuy nhiên, James cũng không chối bỏ việc có nhiều loại tri thức thứ cấp hàm chứa trong tôn giáo.

RODNEY STARK (1934 – ): TÔN GIÁO VÀ SỰ CHỌN LỰA HỢP LÝ 

Khởi đầu từ Comte, hầu hết tất cả học thuyết xã hội học về tôn giáo đều giả định rằng, tôn giáo là một năng lực phản tiến hóa cho xã hội. Qua những hiểu biết sai lầm và mê tín dị đoan, tôn giáo đã làm cho bước tiến của nhân loại bị dậm chân tại chỗ, và mê hoặc các tín đồ tiếp tục bám víu vào niềm tin và thực hành cổ hủ. Khoảng cuối thập niên 1970, nhiều học giả chống lại giả định này và cho rằng tôn giáo thì giống như mọi hoạt động hữu lý khác của con người. Phong trào này cho ra đời học thuyết “chọn lựa hợp lý” vốn lý giải rằng, con người là một hữu thể bị lôi cuốn bởi mục đích. Một khi con người chọn lộ trình để đạt đến mục tiêu của mình, thì họ sẽ tính toán về giá trị phải trả để làm sao thủ đắt cho được; điều này đòi hỏi sự cân nhắc về cách thức ăn mặc, tương quan với tha nhân hay cả mạng sống nữa. Stark và các bạn đồng nghiệp đưa ra một số “nguyên lý” căn bản được xem như là nền tảng hợp lý cho niềm tin và thực hành tôn giáo. Rodney Stark nghiên cứu xã hội học, nhưng cách lý giải về tôn giáo của họ lại nhấn mạnh vào chiều kích tâm lý xã hội. Do đó, chúng ta có thể xếp Stark vào nhóm tâm lý học về tôn giáo.

Tâm lý xã hội và sự chọn lựa hợp lý

Nhóm nghiên cứu “chọn lựa hợp lý” chống lại lối giải thích giản lược về tôn giáo như là một thứ “chìa khóa” duy nhất mở ra thực tại (chẳng hạn như “thuốc phiện ý thức hệ” của Marx). Họ nhận thấy các quan điểm của Marx, Freud và Durkheim tuy có khả năng áp dụng rộng rãi nhưng lại thiếu chiều sâu. Họ chỉ ra rằng, các trường phái trước đây chỉ đưa ra những ẩn dụ chứ không phải là học thuyết về tôn giáo. Họ chống lại quan điểm tiêu cực cho rằng tôn giáo tự bản chất là phi-lý, một thứ khoa học sơ khai, một trạng thái rối loạn tâm thần, hay liều thuốc mê giúp giới lao động tạm thời thoát khỏi sự tha hóa của họ. Họ lý luận rằng, một học thuyết mà ngay từ đầu loại bỏ tính hợp lý của tôn giáo thì không thể thông diễn được sức mạnh vững bền của tôn giáo. Học thuyết mới của họ nhấn mạnh hai điểm quan trọng. Thứ nhất, nó giả định niềm tin và sinh hoạt tôn giáo là hữu lý, căn cứ trên sự hiểu biết thế nào là hợp lý. Thứ hai, nó không khai triển những giả thuyết vĩ mô về tôn giáo, nhưng chỉ đề nghị những câu hỏi và tìm ra câu trả lời cho các hiện tượng tôn giáo được quan sát trong thế giới. Lối suy diễn của học thuyết này thì không dựa trên các tín điều tôn giáo hay bất cứ nguyên lý siêu nghiệm nào cả.

Thuyết “chọn lựa hợp lý”, dựa trên nền tảng lý thuyết “đổi chác” kinh tế, giải thích rằng con người để lộ bản tính hợp lý của mình qua cách họ cân nhắc tỷ lệ đổi chác để mang lại nhiều giá trị nhất cho họ. Trong đa số các tình huống, con người sẽ đổi chác bất cứ thứ gì mà họ sở hữu, để đổi lấy phần thưởng mà họ ước muốn và có khả năng đạt được. Tuy nhiên, đôi khi phần thưởng thì lại ít ỏi và hiếm hoi, vả lại còn bị thao túng bởi những kẻ có quyền lực (ví dụ, một tòa lâu đài). Có những phần thưởng thì không thực tế và không có cách nào kiểm chứng được (ví dụ, sự sống vĩnh cửu). Điều này có nghĩa là: Có những phần thưởng mà con người không thể tự mình bảo đảm sự chiếm hữu về nó. Đứng trước tình huống đó, con người có sự chọn lựa, hoặc là từ bỏ mọi hy vọng chiếm hữu phần thưởng đó, hoặc là chấp nhận một sự bồi thường khác thay vào đó.

Theo hệ hình lý giải này, tôn giáo được định nghĩa như là “hệ thống gồm các bồi thường dựa trên những giả định siêu nhiên”. Các hình thức bồi thường được hiện thực bởi chuyên gia tôn giáo (linh mục, giáo sĩ), vốn hành xử như trung gian phân phối sự bồi thường cho các đối tác trên danh nghĩa Thiên Chúa. Các chuyên gia sẽ cần được huấn luyện, một khi xã hội phát triển và trở nên phức tạp. Giống như mọi việc điều hành kinh doanh, việc tổ chức tôn giáo cũng sẽ tìm cách độc quyền trong tiến trình đổi chác và tẩy chay các thế lực cạnh tranh. Điều này chỉ có thể hiện thực được bằng cách kết hợp với quyền lực chuyên chế của nhà nước. Để tránh khả năng nhà kinh doanh trở nên độc quyền, biếng nhát và ỷ lại, thì bối cảnh đa dạng tôn giáo sẽ cần thiết, vì nó không để cho giới kinh doanh ngủ quên trên các nguồn tư lợi của họ

Áp dụng thuyết “chọn lựa hợp lý” vào tôn giáo

Khác với các học thuyết thế tục khác, học thuyết “chọn lựa hợp lý” xem tôn giáo như là sự phức hợp của những sản phẩm và dịch vụ vốn đáp ứng cho nhiều nhu cầu khác nhau, ngay cả đối với những người giàu có. Đặc biệt là trong bối cảnh xã hội đa dạng với sự cạnh tranh của nhiều tôn giáo, thì tổ chức tôn giáo cần phải liên tục cập nhật và thích ứng với nhu cầu của những “khách hàng” tương lai. Lợi điểm của học thuyết này là nó giải thích được lý do tại sao các tôn giáo bảo thủ vẫn tiếp tục phát triển. Khi cân nhắc về tính hợp lý của tôn giáo, con người không chỉ nhìn vào sự tốn kém nhưng còn cả giá trị của nó nữa. Tiêu biểu, một khi sản phẩm và dịch vụ được kết nối với nhau, thì sự lưu tâm của khách hàng về việc đầu tư vào các sản phẩm sẽ thực sự làm gia tăng chất lượng của nó, và làm cho nó trở thành một món hàng có giá trị hơn. Mức độ đầu tư cao sẽ đưa đến khả năng loại trừ các mưu đồ “ăn theo” và gia tăng giá trị của các sản phẩm.

Các học thuyết trước chỉ nói về tôn giáo như những ẩn dụ khác nhau của cùng một sự kiện xã hội hay tâm linh. Học thuyết “chọn lựa hợp lý” chú tâm đến những gì tôn giáo thực sự truyền đạt và thực hành. Học thuyết này cho rằng tín điều, nghi thức và việc thực hành tôn giáo là những món hàng hay sản phẩm đang được trưng bày nơi phố chợ. Chính vì thế, học thuyết “chọn lựa hợp lý” thường bị chỉ trích là chỉ hình thức hóa tôn giáo nhưng không thể giải quyết mọi vấn đề của nó. Thế nhưng, đây là một học thuyết về tâm lý xã hội, và chỉ có thể giúp chúng ta tìm hiểu sự phát triển về cấu trúc của tôn giáo như sự đổi chác trong xã hội. Nó giải thích cách động lực tâm lý của xã hội tác động lên sự tồn tại của tôn giáo.

Trong một nền kinh tế thị trường, tôn giáo cũng phải cạnh tranh với những “món hàng” hay “dịch vụ” khác, để dành được thị phần vốn không phải là vô hạn. Do đó, giới “kinh doanh tôn giáo” không chỉ phải đáp ứng nhu cầu tâm lý của người tiêu thụ, mà còn phải tiên liệu về những xu hướng hay trào lưu tâm lý xã hội nữa. Những câu hỏi về nội dung của tín lý hay thực tại thánh thiêng của tôn giáo thì nằm ngoài phạm vi của nó. Các học giả của trường phái này yêu cầu học thuyết của họ, như mọi học thuyết khác, cần phải được đánh giá dựa trên tính hiệu lực, thống nhất và hữu dụng của chúng, khi chúng được dùng để giải quyết những vấn nạn cụ thể về tôn giáo.

Kết

Như chúng ta đã thấy, xã hội học khai thác vai trò tích cực và tiêu cực của tôn giáo trong sự cấu kết của tập thể xã hội và tâm lý học nhận diện động lực vô thức lẫn ý thức qua những nỗ lực siêu thăng của cá nhân con người. Nhãn quan tâm lý học giải thích tôn giáo như sự ưu tư tối hậu của con người. Họ cho rằng tôn giáo không chỉ xuất phát từ sự lôi cuốn và thôi thúc đến từ chiều sâu của tâm linh, mà còn là sự chọn lựa hợp lý và ý chí muốn tin của con người. Tôn giáo là một thực tại phức tạp và có nhiều chiều kích mâu thuẩn vốn cần phải được tiếp cận từ nhiều gốc độ lý thuyết khác nhau. Cả hai nhãn quan xã hội học và tâm lý học hiểu tôn giáo như là “chìa khóa” để chú giải cơ cấu xã hội hay các xung lực của con người. Nhưng tôn giáo còn là cách con người chiếu phóng sự tồn tại của mình qua ngôn ngữ và biểu tượng hầu để tạo nên một thế giới đầy ý nghĩa cho mình. Do đó, chúng ta cần một cách tiếp cận có khả năng bộc lộ cấu trúc và nội dung của các biểu tượng tôn giáo trong tương quan với nỗ lực tồn tại của con người. Đây là thử thách mà khoa nhân học về tôn giáo sẽ tìm cách đáp ứng.

Tài liệu tham khảo:

Systematic Theology: Roman Catholic Perspectives. Francis Schussler Fiorenza & John P. Galvin (eds). Fortress Press, 1991.

The Variety of Religious Experiences. William James, Longmans, Green & Co, 1902.

The Future of Religion: Secularization, Revival, and Cult Formation . Rodney Stark. University of California Press, 1985.

Tôn Giáo: La Bàn Thiêng Liêng cho con người. Joseph Tân Nguyễn, OFM. NXB Tôn Giáo, 2023.